
(Một bút hiệu khác của Nhà văn NGUYỄN ĐỨC LẬP)
“Tề thiên” là bằng với ông Trời, hay ngang hàng với ông Trời.
Con khỉ Tề Thiên nầy là Mỹ Hầu Vương, là Tôn Ngộ Không, là Tôn Hành Giả, từng xưng là Tề Thiên Đại Thánh và khi thành chánh quả là Đấu Chiến Thắng Phật, trong truyện Tây Du Ký...
Tây Du Ký là một bộ truyện Tàu nổi tiếng, do Ngô Thừa Ân (sanh vào đời Minh Gia Tĩnh, chết vào thời Minh Vạn Lịch, cách nay trên dưới 500 năm) sáng tác, lấy bối cảnh là chuyện nhà sư Trần Huyền Trang đời nhà Đường lặn lội qua Ấn Độ để học hỏi, nghiên cứu giáo lý nhà Phật và 17 năm sau mới trở về nước, mang theo 600 bộ kinh Phật thỉnh từ Ấn Độ.
Nhà sư Trần Huyền Trang lặn lội qua Ấn Độ thỉnh kinh là chuyện có thật. Ông vượt qua sa mạc Gobi, năm ngày bốn đêm không có một giọt nước nhểu vào miệng. Ông vượt núi Thông Lãnh đầy tuyết phủ, cao 7.200 mét của rặng Thiên Sơn. Từ Tàu, ông qua Tân Cương, rồi đi ngược lên hướng Tây Bắc, qua một số nước thuộc Liên bang Sô viết sau nầy, rồi đi vòng xuống một số nước khác thuộc A-phú-hãn, vòng qua phía nam Hy-mã Lạp-sơn (Tàu gọi là Đại Tuyết Sơn), rồi mới đến được vùng Tây Bắc Ấn Độ. Trên đường đi, có lần ông ông suýt bị ăn cướp giết...
Tất cả những sự kiện kể trên về chuyến đi của nhà sư Huyền Trang là chuyện hoàn toàn có thật.
Khi vào truyện Tây Du Ký, Trần Huyền Trang trở thành Tam Tạng và không đi thỉnh kinh một mình, mà được theo phò bởi ba người đệ tử: Tôn Hành Giả là cốt khỉ; Trư Ngộ Năng, còn gọi là Bát Giái, tướng heo, nguyên là Nguyên Bồng Nguyên Soái ở thượng giới bị đọa; Sa Ngộ Tịnh, còn gọi là Sa Tăng, tướng quỉ, nguyên là Quyện Liêm Tướng Quân trên trời, phạm tội bị đày. Ngay cả con bạch mã đỡ chân cho Tam Tạng cũng là con rồng bạch, Thái tử, con của Đông Hải Long Vương Ngao Thuận, hóa hình...
Đọc truyện Tàu, dù là dã sử như Phong Thần, Thuyết Đường, Chinh Đông, Chinh Tây, Phi Long, Bình Tây, Bình Nam..., hay là kiếm hiệp (gọi là truyện chưởng) như Bạch Mã Khiếu Tây Phong, Hỏa Thiêu Hồng Liên Tự, Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Đại Hiệp v.v.., dù có tác giả hay không có tác giả, mà đem đầu óc khoa học ra bàn, rồi đòi hỏi sự hợp lý, thì thà là đừng đọc.
Truyện Tàu sở dĩ được ưa chuộng, lưu truyền rộng rãi, từ đời nầy sang đời khác, là nhờ ở những ý nghĩa thâm thúy, sâu xa lồng trong những sự kiện bất chấp khoa học. Đem con mắt khoa học ra luận truyện Tàu, đòi hỏi sự hợp lý, mà bỏ quên những ý nghĩa thâm thúy, thì thiệt là lãng quẻ. Bởi vậy mới nói là thà đừng đọc còn hơn...
Vả chăng, chuyện hợp lý và bất hợp lý biết nói sao cho cùng. Hoa Kỳ vẫn tự hào với một nền khoa học tối tân, nhưng các phim ảnh sản xuất ở Mỹ, nhất là những phim bạo động, phim giả tưởng, vẫn có nhiều màn không hợp lý chút nào hết, mà khán giả vẫn thích thú theo dõi vậy...
Trở lại chuyện con khỉ Tề Thiên...
Theo Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, vào thời Bàn Cổ sơ khai, thế giới chia ra làm bốn châu lớn:
- Đông Thắng thần châu.
- Tây Ngưu hạ châu.
- Nam Thiện bộ châu.
- Bắc Câu lư châu.
Bấy giờ, ở cõi Đông Thắng thần châu, có một nước tên là Ngao Lai quốc. Ngoài biển của nước nầy có một hòn đảo, trên ấy có một núi lớn, tư mùa xanh tươi, cây trái sum suê, tên là Huê Quả Sơn.
Trên Huê Quả Sơn, có một hòn đá nằm trơ vơ, hấp thụ khí âm dương của trời đất qua mặt trời, mặt trăng không biết bao nhiêu vạn năm. Hòn đá nầy hoài thai và sanh ra một cái trứng đá. Trứng đá lại tiếp tục thụ khí âm dương của trời đất mà nở ra một con khỉ đá. Con khỉ nầy thông minh, lanh lợi, can đảm, khám phá ra Thủy Liêm động, nên được các con khỉ khác tôn lên làm vua, xưng là Mỹ Hầu Vương (khỉ chúa đẹp đẽ).
Mỹ Hầu Vương chiếm cứ Thủy Liêm động làm sào huyệt, ngày ngày ngồi trên thạch bàn, chờ bầy khỉ nhỏ hái trái về dâng.
Sống vô sự như vậy lâu ngày đâm chán, lại thêm thấy đời sống vô thường ngắn ngủi, Mỹ Hầu Vương từ giã bầy khỉ con, đóng bè vượt biển, đi tầm sư học đạo, mong được trường sanh bất tử...
Mỹ Hầu Vương đi mãi, sau cùng tìm được sư phụ là tổ sư Bồ Đề và được sư phụ dạy cho 72 phép thần thông và môn “cân đẩu vân”, nhảy một cái tới mười muôn tám ngàn dặm.
Mỹ Hầu Vương được tổ sư Bồ Đề đặt tên cho là Tôn Ngộ Không và bắt thề độc không được tiết lộ tên sư phụ...
Đó, gốc tích của con khỉ Tề Thiên là như vậy đó. Đã nói rồi, đừng lấy con mắt khoa học mà luận rằng chuyện đúng hay sai. Vả chăng, có sinh vật nào sanh ra lại không do hai khí âm, dương phối hợp mà thành...
Ông tổ sư Bồ Đề thiệt là cao kiến và phòng xa rất mực. Làm ông thầy, sướng nhất là dạy được thằng học trò chăm chỉ, thông minh, lanh lợi. Nhưng, gặp thằng như vậy mà cốt khỉ, tốt nhứt là phải bắt nó thề độc không được tiết lộ danh tánh của sư phụ. Kẻo không, khi cái tánh khỉ khọn của nó nổi lên, nó phá làng phá xóm, hay nó làm giặc, sẽ mắc họa liên can...
Tôn Ngộ Không là khỉ mặc dầu, nhưng đã thề là giữ lời hứa, trọn đời, cho đến khi thành chánh quả, không cho ai biết tên tuổi của ông thầy. Nhiều kẻ, mặt cũng người, mà cốt người, nhưng mới mở miệng thề bán mạng đó, quay lưng nháy mắt một cái, đã phản bội lời thề rồi, thiệt nhắm ra không bằng con khỉ...
Thành tài rồi, Tôn Ngộ Không trở về Thủy Liêm động. Hồi đi, phải mất mười năm mới tìm được thầy. Hồi về, chỉ cần nhảy một cái, cân đẩu vân, tai nghe gió thổi vù vù, thoáng chốc đã đứng trước cửa động. Tôn Ngộ Không biểu diễn tài nghệ một hồi, bầy khỉ nhỏ phục lăn sát đất.
Thế rồi, Tôn Ngộ Không bắt đầu phá làng phá xóm, xuống tận long cung đòi nạp binh khí. Bốn vị Long vương cai quản bốn biển đưa ra đủ loại binh khí, nhưng món nào, Ngộ Không cũng cảm thấy không xứng tay. Sau cùng Long vương mới dắt Ngộ Không ra giữa rún biển, chỉ cây cột sắt, nặng một vạn ba ngàn năm trăm cân, dằn ở đó cho khỏi ba đào sóng dậy. Cây nầy gọi là “Như ý kim cô bổng”, muốn biến lớn biến nhỏ tùy ý (Ngộ Không từng biến nhỏ bằng cây kim, dắt ở lỗ tai).
Có cây thiết bảng vừa tay rồi, Ngộ Không lại đòi khôi giáp. Báo hại bốn vị Long vương mỗi người phải nạp một món, mới đủ một bộ khôi giáp cho Ngộ Không.
Trở về Thủy Liêm động, Ngộ Không cầm thiết bảng, rùng mình một cái, biến thành “mình cao trăm trượng, lưng lớn mười vừng”, khiến cho các ma vương, chúa động ở khắp nơi, như Ngưu Ma vương, Độc Giác quỉ đều sợ hãi, đều tôn Ngộ Không lên làm chúa.
Ngộ Không còn xuống náo loạn âm phủ, ăn hiếp Thập điện Diêm vương, bôi tên hết loài khỉ vượn trong sổ tử, nhờ vậy mà loài nầy không bao giờ chết...
Phá làng phá xóm như vậy, Tôn Ngộ Không bị Tứ Hải Long vương và Thập điện Diêm vương làm đơn tố cáo lên tới Thiên đình...
Ngọc Hoàng Thượng Đế họp hết trào đình, tính hưng binh vấn tội, bắt con khỉ ngang tàng về trừng trị. Nhưng, Thái Bạch Kim Tinh bước ra can ngăn, khuyên nên chiêu hàng trước, nếu không xong sẽ động binh không muộn. Cái nầy kêu bằng “tiên lễ, hậu binh”, vẫn thường được áp dụng ở các nước Á đông...
Thái Bạch Kim Tinh được cử làm sứ giả chiêu hàng và ông đã thành công. Tôn Ngộ Không chịu lên Trời, nhận chức Bật Mã Ôn do Ngọc Hoàng ban cho.
Vốn là thứ ở rừng mà, đâu có biết quan chức của thiên đình sắp đặt ra sao, Tôn Ngộ Không tưởng Bật Mã Ôn là chức to lắm. Ai dè, đó là chức giữ ngựa, ngựa mập ngựa khỏe thì được khen, ngựa bịnh ngựa ốm thì bị chửi, bị phạt. Tới chừng biết được, Tôn Ngộ Không nổi giận bỏ về Thủy Liêm động, tiếp tục xưng vương. Rồi bọn quân sư xúi khôn xúi dại, Tôn Ngộ Không dựng cờ, xưng là “Tề Thiên Đại Thánh” (Ông thánh lớn ngang bằng với Trời).
Tới lúc khỉ già làm giặc rồi đây!
Nhịn không được nữa, Ngọc Hoàng sai thiên binh thiên tướng, nào là Tứ Đại Thiên vương, nào là thần Lục Đinh, Lục Giáp, nào là Na Tra Thái Tử, tay cầm càn khôn quyện, lưng thắt Khổn Thiên Lăng, chân cởi Phong Hỏa Luân... xuống trần tiểu trừ.
Có lẽ binh Trời, tướng Trời, bấy lâu vô sự, nên binh giáp đằng đằng, cờ quạt phất phới, mà làm không lại con khỉ thần thông...
Cuối cùng, Ngọc Hoàng lại phải nghe lời Thái Bạch Kim Tinh, chiêu hàng, chịu phong cho Tôn Ngộ Không làm Tề Thiên Đại Thánh, cấp phủ điện trên thiên đình cho Ngộ Không ở.
Nhưng, như vậy cũng đâu đã yên. Bởi Ngộ Không tánh khỉ không chừa, ở không sanh chán, làm loạn thiên đình, nào là ăn lén hết cả vườn đào của bà Tây Vương Mẫu, lại đột nhập đại hội Bàn Đào do bà tổ chức, ăn uống phá hoại tan tành, rồi qua cung Đâu Xuất của ông Thái Thượng Lão Quân, uống trộm hết cả bầu thuốc kim đơn trường sanh bất tử của ông nầy nữa, rồi lại bỏ về Thủy Liêm động...
Lần nầy thì chiến tranh lớn...
Thiên đình phải viện tới Nhị Lang Hiển Thánh Dương Tiễn xuất trận. Dương Tiễn cũng bảy mươi hai phép thần thông, lại thêm có con Hạo Thiên Khuyển là chó thần trợ lực, Tề Thiên đánh không lại. Tề Thiên hóa ra con gì cũng bị Dương Tiễn hóa ra một con khắc kỵ, tấn công liên tục. Sau cùng, Tề Thiên nhào xuống đất, biến thành cái miếu Thổ Địa. Ngặt một điều, còn kẹt cái đuôi, không dấu được, Tề Thiên phải biến nó thành cây cột cờ, cắm phía sau miếu.
Rượt tới đó, thấy cái miếu, Dương Tiễn cười ngất, bởi cột cờ thì cắm phía trước, chớ ai mà cắm phía sau bao giờ. Đây là, cốt khỉ, không trước thì sau, cũng phải loài đuôi khỉ mà thôi.
Rốt cuộc, Tề Thiên phải hiện nguyên hình, đánh tiếp với Dương Tiễn. Thái Thượng Lão Quân đứng trên mây, trợ lực cho Dương Tiễn, dùng chiếc vòng đeo tay của ông, gọi là Kim Cang Trào, ném trúng Tề Thiên, khiến khỉ già té nhào. Con Hạo Thiên Khuyển nhào vô cắn, Tề Thiên đành thúc thủ chịu trói.
Cái nầy kêu bằng khỉ té xuống đất, bị chó cắn phải thua...
Tề Thiên bị đem về thiên đình, hành hình. Nhưng, búa thiên lôi bổ vô đầu thì mẻ búa. Gươm trảm yêu chém vô cổ thì mẻ gươm, không cách gì giết được. Sau cùng, Thái Thượng Lão Quân đem Tề Thiên nhốt vô lò Bát Quái, nói rằng chỉ cần đốt lò đủ 49 ngày, xương thịt Tề Thiên sẽ tiêu thành tro.
Lò Bát Quái có tám cửa. Cửa hướng Tốn có gió mà không có lửa. Tề Thiên chun vô cửa nầy mà trốn, bị khói xông, hai tròng mắt trở nên vàng khè...
Đúng 49 ngày, Thái Thượng Lão Quân mở lò, Tề Thiên chẳng những không chết, mà còn phóng ra, hóa thành ba đầu sáu tay đại náo thiên cung, đánh binh tướng nhà Trời tan nát, phá thiên đình tanh banh. Sau, Ngọc Hoàng phải viện tới Phật Tổ Như Lai, mới đè được Tề Thiên dưới Ngũ Hành Sơn.
Phật tổ dán một lá bùa trên núi để Tề Thiên không còn cựa quậy gì được...
Nhân dịp Kim Thiền Trưởng Lão đầu thai làm Trần Huyền Trang, nhà Đại Đường, tức là Tam Tạng, Tây du thỉnh kinh, Quán Thế Âm Bồ Tát tìm người bảo hộ...
(Quán Thế Âm Bồ Tát, trong kinh Phật nguyên thủy của Ấn Độ là một nam nhân, đã nguyện vĩnh viễn không thành Phật, chỉ là Bồ Tát dưới trần, nghe lời cầu xin của chúng sanh, đến mà cứu khổ cứu nạn. Bởi vậy mới có câu “tầm thinh cứu khổ”. Sang đến Đông phương, Quán Thế Âm Bồ Tát mang hình tượng phụ nữ. Bởi vì người Tàu quan niệm rằng chỉ có người phụ nữ mới có được lòng dạ thương người rộng rãi như vậy. Thằng ăn cướp bị rượt nà, kêu cứu thì Bồ Tát cũng cứu; người lính đuổi phía sau, mệt lè lưỡi, kêu cứu, Bồ Tát cũng cứu. Người Tàu cho rằng chỉ có người phụ nữ mới có lòng dạ thương người như vậy thôi...)
Bồ Tát ghé ngang Ngũ Hành Sơn, dặn Tề Thiên, nếu Tam Tạng đi ngang, nhờ Tam Tạng gỡ lá bùa, và phải theo phò Tam Tạng thỉnh kinh...
Bồ Tát còn cho Tam Tạng một cái vòng, gọi là Như Ý Kim Cô, gạt cho Tề Thiên đội lên đầu. Vòng sẽ dính chặt vào da đầu. Mỗi khi Tam Tạng đọc chú “cẩn cô” thì vòng siết chặt, nhức đầu chịu không nổi, và niệm chú “tòng cô” thì vòng dãn ra. Có như vậy mới trị được con khỉ ngang tàng mà tài nghệ khó người đương được...
Tề Thiên, theo Tam Tạng, được gọi là Tôn Hành Giả, cùng với Bát Giái, Sa Tăng, phò thầy sang tận Thiên Trúc. Trên đường đi, Hành Giả trừ yêu, phục quỉ, gian nan trăm trận, giúp cho chuyến thỉnh kinh của thầy thành công...
Cuối cùng thì Tề Thiên thành chánh quả, được phong làm “Đấu Chiến Thắng Phật”.
Ngô Thừa Ân là nhà Nho, học Nho nổi tiếng thần đồng, nhưng rõ ràng bộ Tây Du Ký chịu ảnh hưởng rất nhiều của Phật giáo...
Tam Tạng tượng trưng cho lòng vô úy, lòng kiên trì, đức tin mãnh liệt của người tu sĩ Phật giáo.
Tề Thiên tượng trưng cho lý trí, tài năng.
Bát Giái tượng trưng cho dục vọng trong mỗi con người.
Sa Tăng tượng trưng cho cái tánh cần cù, an phận...
Tất cả bốn nhân vật ấy, gom lại, thật ra, chỉ là một con người. Một con người, có lúc thiện, có lúc ác, có lúc tràn đầy dục vọng, có lúc an phận thủ thường...
Con khỉ Tề Thiên chỉ là một trong những bản chất của con người. Lý trí cần lắm, nhưng có khi cái trí làm hại cái tâm. Tài năng cũng cần, nhưng có tài mà cậy tài thì dễ sa chân lỡ bước. Vả chăng, tài nhiều khi không bước qua khỏi mệnh...
Ngô Thừa Ân học giỏi nổi tiếng, tài năng quán chúng nhưng thi cử hoài mà không đậu, mãi tới năm 50 tuổi, mới làm được chức tri huyện quèn, mấy năm sau, lãnh chức coi giấy tờ, sổ sách trong một vương phủ, ba năm thì về hưu...
Rõ ràng tác giả Tây Du Ký là con người tài năng mà không gặp thời và không khỏi cay đắng với cuộc đời, bất mãn với số mệnh.
Con khỉ Tề Thiên náo loạn thiên cung, hay chính Ngô Thừa Ân muốn đại náo triều đình nhà Minh cho thỏa lòng bất mãn?
Rõ ràng cái triều đình ở trên Trời đâu có khác gì với cái triều đình nhà Minh ở dưới thế. Có tài như Tôn Ngộ Không mà chỉ phong cho chức Bật Mã Ôn, có khác nào nổi tiếng như Ngô Thừa Ân mà chỉ bổ làm tri huyện? Còn đám văn thần võ tướng, bình thời thì cân đai áo mão rỡ ràng, tới hồi giặc tới thì quan văn chủ hòa như Thái Bạch Kim Tinh, quan võ thì ở không quen rồi, đánh giặc không quen như Tứ Đại Thiên vương, Qui, Xà nhị tướng, Lục Đinh, Lục Giáp v.v...
Còn bọn yêu, quỉ làm hại dân lành, cản đường Tam Tạng là ai? Hầu hết đều là đệ tử, hay những con vật của các Tiên Thánh Thần Phật trên Trời, trốn xuống thế phá hại. Sự kiện nầy làm người ta nhớ tới bọn tay chưn bộ hạ của các quan lớn, dựa vào thần thế của cấp trên mà tác oai tác quái, làm hại dân lành vô tội.
Con đường thỉnh kinh của Tam Tạng gian nan cũng chính là sự gian nan đã trải qua trong lòng của Ngô Thừa Ân, trước khi tìm được sự an bình nhờ Phật pháp.
Con khỉ Tề Thiên, thần thông quảng đại như vậy, nhưng không nhảy qua khỏi bàn tay năm ngón của Phật Tổ Như Lai.
Cuối cùng, khi đã thành chánh quả rồi, Tề Thiên yêu cầu Tam Tạng tháo bỏ cái vòng Kim Cô trên đầu. Tam Tạng đã cười mà bảo rằng “người rờ thử coi, cái vòng Kim Cô có còn không”.
Tề Thiên rờ lên đầu. Quả nhiên, cái vòng oan nghiệt đó đã biến mất.
Triết lý là ở chỗ đó, mà cao siêu cũng là ở chỗ đó. Cái vòng Kim Cô khiến cho mình bị người khác khống chế cả đời, hay bị cuộc sống khống chế cả đời, là ở lòng mình, do chính mình đội lên đầu chớ ai...
Trong lòng ai lại không có một con khỉ Tề Thiên, lại không có một Bát Giái ham ăn ham ngủ ham nhục dục, lại không có một Sa Tăng cần cù, cầu an.
Nếu cái chất Tam Tạng trong mỗi người mà không thắng được đám Tề Thiên, Bát Giái, Sa Tăng, thì con người vĩnh viễn sẽ chìm đắm trong biển trầm luân mà thôi...
CHÁNH PHƯƠNG
(Trích từ KỶ YẾU THƯ VIỆN VIỆT NAM 2000)