BÀI MỚI NHẤT
07 Tháng Mười Một 2025(Xem: 121)
Trong suốt hơn 100 năm nay, người Việt của ba, bốn thế hệ đều quen thuộc với câu ca dao thật mộc mạc, phổ thông đã thấm sâu vào hồn bao người. Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Điểm đặc biệt là hai câu ca dao này không những đã vượt thời gian mà còn vượt cả không gian, đi đến miền nào trên đất Việt đều được người miền ấy uyển chuyển thay đổi đôi ba địa danh để địa phương hóa hai câu nghe thật thỏa nguyện. Từ miền Bắc nghe văng vẳng nơi chốn Hà Nội: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Đến miền Trung trên dòng sông Hương lại nghe rõ câu ca: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. Ấy thế mà vào đến trong Nam cũng chừng đó “gió đưa”, “tiếng chuông”, “canh gà” mà lại biến hóa thành: Gió đưa tàu chuối la đà, Tiếng chuông Xá Lợi, canh gà Thủ Thiêm. (trích từ bài: Thọ Xương hay Thọ Cương -Thái Văn Kiểm, 2001) ...
01 Tháng Tư 2025(Xem: 2030)
Vào lúc 11 giớ sáng Chủ nhựt 30 tháng 3 năm 2025 phòng sinh hoạt của Thư Viện Việt Nam góc đường Westminster và Euclid đã không còn chỗ trống. Trên 250 quan khách và đồng hương đã đến đây - như thông lệ hàng năm - để nhận 1 cuốn sách bằng tiếng Anh có nội dung độc đáo: Viết về lịch sử hình thành Little Saigon. Cuốn sách dày 310 trang, ghi lại diễn tiến từ 1975 đến 2024 tất cả những sinh hoạt liên quan đến sự hình thành của Little Saigon. Tác giả là 2 nhà báo sống tại Little Saigon ngay từ lúc khởi đầu, đã sưu tập tài liệu và nhất là hình ảnh để đưa vào tác phẩm. Trong buổi ra mắt sách, tác giả công phu mời các nhân vật làm business hay sinh hoạt tại Little Saigon từ lúc khởi đầu đền trực tiếp nói chuyện với quan khách...
25 Tháng Ba 2025(Xem: 1950)
Nạn đói năm Ất Dậu 1945 để lại những nỗi đau đớn tột độ cho những người sống sót và ấn tượng kinh hoàng cho những người đã chứng kiến. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại xảy ra một biến cố thảm thương như thế.Hoàn cảnh và những nguyên nhân nào đã đưa đến nạn đói năm Ất Dậu? Mời độc giả tìm đọc trong bài viết này với nhiều chi tiết gây xúc động mạnh mặc dù sự việc đã xảy ra 80 năm trước đây.
12 Tháng Giêng 2025(Xem: 5684)
In the final days of May, 1975, it was a time of book persecution for the people of South Vietnam. As soon as the Communists seized Saigon, they hastily ordered the confiscation of all South Vietnamese books and newspapers, which they labeled as "decadent and reactionary culture."
12 Tháng Hai 2024(Xem: 2574)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
18 Tháng Giêng 2024(Xem: 3669)
Đài VNATV thực hiện 2 videos về buổi lễ tưởng niệm Nhà văn, Nhà báo, Nhà giáo Trần Lam Giang tại Phòng Sinh Hoạt Thư Viện Việt Nam Little Saigon (Vietnamese Cultural Center - VHV Foundation), 10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843. Tổ chức trong nội bộ và một số bạn học cùng thời với người quá cố.
12 Tháng Giêng 2024(Xem: 2415)
Trong cuộc nội chiến, hai kẻ địch văn hóa là : - Văn hóa cổ truyền hay văn hóa Sài Gòn thì mọi người dân Việt ở hải ngoại hay quốc nội đều hay biết vì hiện đang sống với , - Văn hóa XHCN thì ở miền Nam ít người biết đến vì 2 lý do sau : 1) Cuộc sống ngắn ngủi 10 năm (1975-1986) của văn hóa XHCN tại miền Nam, 2) Hầu như không có tác giả nào cả quốc gia lẫn cộng sản viết về văn hóa XHCN và cuộc nội chiến văn hóa Bắc Nam. Đó là lý do chúng tôi dành phần 1 và phần 2 cho văn hóa XHCN và phần 3 cho cuộc nội chiến văn hóa.
12 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 2881)
Tác giả ghi trong phần « Tự Luận về Bản In tại hải ngoại » : « Ba mươi năm chiến tranh (1945-1975), một cuộc chiến mà người Việt hầu như đóng vai « được mướn » để đánh lẫn nhau, là ba mươi năm tàn phá triệt để như thể một cuộc đổi đời. Ba mươi năm chiến tranh đã qua. Hơn mười năm cuồng say chiến thắng kéo theo hận thù, tù đày, cũng đã qua. « Thua » hay « Thắng » thì cả hai đều tỉnh giấc trước điêu tàn của đất nước. Một thời kỳ đại loạn chưa từng thấy trong lịch sử của dân tộc Việt. Đại loan cho đời sống vật chất. Vô cùng quan trọng nữa là đại loạn cho nếp sống tinh thần, nền móng của tổ chức xã hội. Hậu quả là trước mắt chúng ta hình ảnh một xã hội bị phân hóa và băng hoại cực độ, khiến cho đại chúng không có được một niềm tin để sống, để hành động trong tinh thần hướng thượng với ý thức giúp vào phúc lợi lâu dài của dân tộc… »
04 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 1832)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
28 Tháng Mười Một 2023(Xem: 2059)
“Năm Quý Mùi (1943) là năm trăng mờ gió thảm, tiếng chiến tranh inh ỏi khắp hoàn cầu, toàn xứ Đông Dương bị quân Nhật Bản tràn vào, họa chiến tranh mỗi ngày một lan rộng. Dân Việt Nam bị đói kém đau khổ đủ mọi đường, lại căm tức về nỗi nước nhà suy nhược phải bị đè nén dưới cuộc bảo hộ trong sáu bẩy mươi năm, cho nên ai cũng muốn nhân cơ hội ấy mà gây lại nền độc lập đã mong mỏi từ bao lâu. Tôi là một người nước Việt Nam, lẽ nào lòng tôi lại không rung động theo với dịp rung động của những người ái quốc trong nước? Nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, lòng người ly tán, nhiều người lại muốn lợi dụng cái tiếng ái quốc để làm cái mối tư lợi cho mình, vì vậy mà tôi chán nản không dự vào đảng phái nào cả, mà cũng không hành động về phương diện chính trị. Ngoài những lúc làm những công việc hàng ngày phải làm, khi rỗi rãi gặp những bạn thân, nói đến chuyện thiên hạ sự và việc nuớc nhà, thì tôi cũng nói chuyện phiếm và mong cho nước nhà chóng được giải phóng…”

CÔ BA TRÀ VINH VÀ NHÃN HIỆU XÀ BÔNG CÔ BA CỦA HẬU DUỆ PHẢN THANH MỤC MINH TRƯƠNG VĂN BỀN

09 Tháng Mười 20239:27 CH(Xem: 11246)
CÔ BA 3
Tượng CÔ BA bằng đồng tại Thư Viện Việt Nam. (Hình chụp tháng 10 năm 2023)

CÔ BA TRÀ VINH VÀ NHÃN HIỆU XÀ BÔNG CÔ BA
CỦA HẬU DUỆ PHẢN THANH MỤC MINH TRƯƠNG VĂN BỀN

CÔ BA GIỐNG TƯỢNG


THƯA TRƯỚC: Bức hình tui theo lịnh thầy Giáo Lập (Hương Giáo Nguyễn Đức Lập) chụp hai chục năm trước lạc mất – vì lúc ấy không “hại điện” (hiện đại) như chừ. Hồi ấy chụp ra phim rồi rửa, cất trong album. Nhiều album quá lựa mỏi tay, mờ mắt vẫn chưa tìm ra nên hẹn vài ngày nữa chụp tượng Cô Ba (chụp năm 2023). Lý thú là hình cô Ba trong các tư liệu được phổ biến khá giống nét với bức tượng đồng mà nhân vật “Lê Thức” tặng cho Thư Viện Việt Nam. Khi chụp hình tượng đồng Cô Ba tui sẽ để sát bức hình số 1 này để quý bạn so sánh. Ngoài hình tượng đồng của tui chụp, các hình khác khi không ghi xuất xứ (vì nhiều báo, tư liệu dùng giúng nhau), đó là hình trên internet.

CO KHANH



Hồi nhận bức tượng đồng khá đẹp này, anh thầy Hương Nguyễn Đức Lập trầm trồ:

- “Ở Sài Gòn (và tàn cõi Đông Dương gồm Việt-Mên-Lèo) từ trai tới gái, từ già tới trẻ người người đều xài xà bông Cô Ba.
CÔ BA

Rồi anh nói một sách chắc như bắp: “Nhưng chẳng ai biết “Cô Ba” là cô Ba nào?”

Hít một hơi thuốc, Thầy nói thêm:

- Nhiều nhà có con gái thứ hai, đều được kêu bằng “con Ba”, lớn lên trổ mã thì mấy đứa con trai mấp mé gọi “cô Ba”, thân hơn tí thì gọi “em Ba”, anh em bà con trong họ cũng gọi cô gái này là “con Ba” hay “cô Ba” (và thêm tên cha mẹ của người con gái mà họ gọi – thí dụ “con Ba nhà chú Lạng”). Thế thì tại sao ông Trương Văn Bền, chủ hãng xà bông đặt tên sản phẩm của mình là “xà bông Cô Ba”?

Coi bộ anh thầy Hương Nguyễn Đức Lập ưa cái tượng bán thân bằng đồng của “Cô Ba” này lắm. Tui và các anh Trầm Tử Thiêng, Trần Lam Giang, Du Miên và Trương Văn Điển mở ý hỏi ảnh: “Anh (Lập) khoái bức tượng đồng này hay nhân vật được tạc tượng?”

Riêng bác sĩ Võ Trọng Di thì cười thoải mái: “Lập và Giang (Trần Lam Giang) rành về đồ cổ, chắc là biết xuất xứ của tượng đồng (cô Ba) này?”

CÔ BA TVVN CŨ
TỪ TRÁI QUA: Hàng đứng (Hiếu, nay là Linh Mục), Du Miên. Hàng ngồi: Nguyễn Đức Lập, Trầm Tử Thiêng, Trương Văn Điển và Trần Lam Giang. Hình chụp 1999 trước cửa TVVN cũ đường First St.

Tối ấy, vào mùa đông, trước cửa Thơ Dziện kê bàn để anh em hút thuốc và uống cà phê hoặc trà. Ngày mai nhiều anh đi trại Hướng Đạo. Ba trên năm anh em sáng lập Thơ Dziện là Hướng Đạo Sinh. Hai anh Trầm Tử Thiêng và Trần Lam Giang tuy không sinh hoạt trong phong trào Hướng Đạo nhưng hai anh gốc thầy giáo, luôn quan tâm việc uốn nắn, dẫn dắt thanh thiếu niên nên người.

(Vì có “gốc” ở Hướng Đạo nên Thơ Dziện dành riêng một góc, có tủ riêng để chưng sách báo liên quan đến Phong Trào Hướng Đạo Việt Nam. Khu này còn có nhiều bức hình thuộc loại đặc biệt, mỗi cái đều có “lý lịch” ly kỳ và tại sao có mặt ở khu vực “góc” Hướng Đạo tại Thơ Dziện? Mai mốt sẽ kể).


Khi anh Di nói tới đồ cổ, anh Lập cười cười: “Chẳng hạn như bức tượng “Cô Ba” này, người tặng bức tượng cho chúng ta có thố lộ một tí nguồn gốc của bức tượng.”

Có lẽ anh Hương giáo Lập tránh né chuyện chẳng hạn như từng thương (hay ngấp nghé, hoặc si tình) một cô nào thứ ba, hay tên là “cô Ba”? Bởi vì đương khi nói chuyện tìm hiểu tại sao xà bông của hãng ông Trương Văn Bền lấy tên “Cô Ba” và in hình “Cô Ba” cầu chứng, thì lại lái sang xuất xứ của cái tượng đồng này?

Mọi người lắng nghe anh Lập kể:

“Bài hát này của tác giả Lê Ninh, được Việt Quốc chọn làm đảng ca vì cờ của Việt quốc nền đỏ ngôi sao trắng trong vòng tròn xanh. Em ruột ông Lê Ninh là Lê Hưng cho “Lê Thức” bức tượng “cô Ba” này và ông “Lê Thức” tặng để chưng ở Thơ Dziện.

Người tặng tượng cho Thơ Dziện là “Lê Thức” nhưng Lê Thức lại kể gốc chính là từ ông Lê Hưng. Đúng ra là ông Lê Hưng cho ông Lê Thức bức tượng và ông Lê Thức nổi hứng tặng nhóm sáng lập Thư Viện Việt Nam.

Không đợi ai ưng hay không, anh Hương Giáo Lập nghiêm trang hát một đoạn:

(trong lúc Anh Thiêng gõ nhịp xuống mặt bàn miệng nhấp theo)

“Ta dâng cờ Sao Trắng oai hùng trùm ngang non sông

Đây hương linh năm xưa còn ghi dấu vết chiến đấu

Bao anh hùng xưa đem máu xương nguyện dành cho dân Lạc Hồng

Máu chiến thắng sáng ngời, soi đường đi thêm sáng tươi, cờ vinh quang… hồn đất nước, nhắc cho ta dân Việt một phương hùng cường…”

Nghỉ một chút vừa lấy hơi, vừa nhẩm nhẩm cố nhớ lời ca, rồi kết:

“Dù gian lao, thề chiến đấu, lòng say đắm quyết dâng cờ cao lùa trong ánh dương…”

Thầy Hương Giáo Nguyễn Đức Lập tằng hắng lấy đà:

“Chủ nhơn Trương Văn Bền “chơi ngông” mở hãng xà bông “cây nhà lá vườn” cạnh tranh với chính hãng “Savon” của Tây. Hồi ấy nước mình là thuộc địa của Tây. Dân mình là dân bị trị. Ấy thế mà ông Bền dám tranh giành nguồn lợi với bọn Tây vốn tới nước mình là để cướp của cải, đồ quý của nước mình mang về nước chúng. So ra với chuyện ông Nguyễn Thái Học và nhóm Nam Đồng Thư Xã tiền thân của Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ trương đánh đuổi Tây thì ông Bền rõ ràng là có mối tương đồng!

Người dân miền Nam lúc đó thường nhìn người gốc Hoa chỉ chuyên làm ăn buôn bán, ít ai nghĩ rằng họ dám nổi máu anh hùng. Bởi thế khi họ thấy ông Trương Văn Bền chọn “Cô Ba” làm nhãn cầu chứng là “Xà bông Cô Ba”, liền đoán mò và tin như thiệt rằng “Cô Ba” chính là bà dzợ của ông. Hồi đó đâu có báo chí báo chung gì nên chẳng có nhà báo nào phỏng dấn phỏng diếc ông Bền. Và do đó, chuyện về nhơn dật “Cô Ba” là dzợ ổng cũng chẳng ai biết đích xác có phải thiệt hôn. Thiên hạ cứ đồn thổi và chuyền miệng mua vui với nhau.

CÔ BA ÔNG BỀN
Ông Trương Văn Bền, người Minh Hương, gốc Thiên Địa Hội (Phản Thanh Phục Minh)
Chủ nhơn hãng "Xà Bông Cô Ba" nổi danh Việt Nam ta.

“Người cố cựu kể lại rằng ông Bền là người gốc “Minh hương” hàm ý họ là con dân Tàu dưới triều Minh (Chu Nguyên Chương khai sáng triều đại này). Chẳng những vậy mà ông cố của ông Bền là thuộc cấp của một trong 2 tướng thuộc Minh triều lưu vong sang Việt Nam, nêu cao ngọn cờ “phản Thanh phục Minh” từ thế kỷ 17. Ông Bền sanh năm 1883 ở Chợ lớn, trong gia đình buôn bán khá giả. Được ăn học trường Tây, học thêm Việt và Hoa ngữ. Ban đầu ổng đậu bằng tiểu học và làm công chức cho chính quyền Pháp ở Việt Nam nhưng ông sớm rời bỏ để “theo nghiệp cha ông”, quay trở lại nghề buôn.

“Vì có máu làm ăn nên thương nghiệp của ông khấm khá ngay từ đầu. Có vốn “Tây học”, lại nhờ có gốc văn hóa truyền thống cả Việt lẫn Hoa, Trương Văn Bền tận dụng sở trường kiến thức áp dụng vào việc làm ăn. Thời ấy mà ông đã chịu chơi, nhập cảng máy móc của Mỹ (mua từ Pháp) và Pháp về “đè bẹp” các đối thủ thương nhân Tàu Việt ở Chợ Lớn và khắp nơi.

“Ông Bền còn có lúc được cử vào các chức vụ ở phòng thương mại, canh nông phòng (hai cái tổ chức này Tây lập ra để che mắt thiên hạ). Ông Bền cũng lập công ty nghề nông không lệ thuộc chính quyền bảo hộ (của Tây). Rồi ổng nhảy sang lãnh vực sản xuất các loại dầu từ dầu ăn, tinh dầu tới dầu cho công nghiệp. Từ đây ổng vọt một bước thật ngoạn mục: chế xà bông, đối đầu với Savon de Marseille sản xuất từ Pháp đang thống lãnh thị trường toàn cõi Đông Dương.

“Vốn liếng Tây học giúp ổng biết quảng bá sản phẩm và khi quảng cáo, để cạnh tranh với đối thủ, phải có “tuyệt chiêu”. Có thể nói ông Bền là thương gia hô hào “người Việt xài hàng Việt” (hồi đó, thập niên 30 của thế kỷ trước (1932), mà ổng đã hô hào cái mà ngày nay các “ma-gà” (MAGA) ca ngợi tổng thống Trump cổ vũ “người Mỹ dùng hàng sản xuất của Mỹ”!) Hình ảnh “Cô Ba” phải “ăn đứt” cô đầm nhãn hiệu của Savon de Marseille khi quảng cáo giành thương trường, chinh phục khách hàng bản xứ.

CÔ BA MARSEILLE
Hình xà bông Tây, trong đó có Savon de Marseille của Tây thực dân

CÔ BA
Ai cũng công nhận hình cầu chứng "Cô Ba" ăn đứt hình đầm Tây

“Trước lúc ông Bền ra hãng xà bông (1932), Việt Nam Quốc Dân Đảng được thành lập 1927, tổng khởi nghĩa Yên Bái 1930 với kết cục bi thảm: Đảng trưởng Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí lên đoạn đầu đài.

“Nguyễn Thái Học là sinh viên trường Cao Đẳng Thương Mại Hà Nội. Trước khi cùng thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng, anh Học đã viết thư đòi chính quyền bảo hộ (Tây) cải cách nhưng bất thành. Ông Bền xà bông từng làm giúng dzậy nhiều lần “đề nghị Tây” cải cách trong lãnh vực thương mại, nông nghiệp nhưng bọn thực dân không nghe. Bởi thế, cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng là lực áp đảo để đưa thương gia Trương Văn Bền ra quân hô hào “người Việt xử dụng hàng Việt”.


Cả hai ông cùng có gốc “Tây học” Nguyễn Thái Học và Trương Văn Bền đều có tư tưởng tương đồng, hành xử kiểu Tây (đề nghị thực dân cải cách).

Nói một cách dễ hiểu hơn, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã truyền cảm hứng cho nhà buôn Trương Văn Bền “đòi quyền lợi” trên thương trường cho sản phẩm Việt Nam.

“Vậy thì tại sao lại là “Cô Ba”? Cô Ba nào?”

Rít một hơi thuốc, anh Lập chậm rãi đọc một số câu dè (vè), câu thơ cũ (tui nghe lóm nhớ lỏm bỏm, phải tra “gu-gồ” để chép cho đúng, cảm ơn “sư phụ gu-gồ” – mai mốt chắc còn có thêm “sư phó “Ai”” (Trí tuệ nhân tạo)…

“Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra,

Chép làm một bổn để mà coi chơi.

Trà Vinh lắm kẻ kỳ tời,

Có thầy Thông Chánh thiệt người khôn ngoan…

Ngưng chút rồi tiếp đoạn chính:

...Lang Sa bày tiệc châu thành,

Ăn lễ "Toa-dết" gọi là Chánh Chung...

...Thầy Thông thiệt lẹ như cờ,

Bắn quan Biện lý suối vàng vong thân.

Trúng nhằm ông Chánh Vĩnh Long,

Trúng ngay bắp vế điệu về nhà thương.

 

...Trúng nhằm ông Đốc Cần Thơ,

 

Bây giờ lại trúng chính tòa Bạc Liêu.

 

...Khá khen cây súng tài cao,

 

Người Nam không trúng, trúng nhằm người Tây...”

 

Thầy giáo Nguyễn Văn Lợi (tức nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng) vỗ tay cái đét vô đùi võ sư Trương Văn Điển:

 

“Cái này em Lập đang kể lại tích “thầy Thông Chánh” dùng súng Tây bắn chết tên biện lý Tây lừng danh tàn ác ở Lục Tỉnh Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Phải chi lúc đó có chú Điển, chú mà phóng “song cước” như lúc dzớt mấy thầy dzõ Cao Ly, cho bọn Tây lé con mắt coi chơi!”

 

(Thay vì ghi chú, mở ngoặc đơn nói luôn ở đây: Anh Điển là võ sư hạng nhứt với món “song cước”. Lúc đang thụ huấn Thủ Đức, hai võ sĩ Cao Ly huấn luyện viên võ ở trường, có thái độ khinh miệt người Việt, võ sư Trương Văn Điển nổi trận lôi đình, woánh 2 tên mắt hí Nam Cao Ly này làm 1 tên chết ngay tại chỗ. Thế là Trương võ sư nhà mình bị bắt và phải trình diện tướng chỉ huy Trường Bộ Binh Thủ Đức. Chuyện này anh Trần Lam Giang kể cho mọi người nghe. Trương sư phụ tưởng phen này phải ngồi tù hay đền bù nầy nọ. Nào ngờ ông Tướng chỉ huy trưởng vỗ vai Trương Võ sư mà nói rằng “Cám ơn em đã thay mặt anh em ta dạy cho những tên này một bài học. Mọi việc để anh lo…” Và sau đó ông Tướng còn đề nghị giữ anh Trương Văn Điển ở lại trường Bộ Binh Thủ Đức vai trò cận vệ cho ông nhưng, vẫn theo lời anh Giang, anh Điển cám ơn và xin ra đơn vị tác chiến. Sau đó anh bị thương trên cổ thập tử nhứt sanh mới giải ngũ… Nay cái thẹo còn chần dần ở đó.)

 

Trở lại chuyện thầy Lợi gợi ý tay nghề song cước trứ danh của võ sư Trương Văn Điển (quản thủ thơ dziện đầu tiên – 1999) nhắc tới đó thì thầy giáo làng (Hương Giáo) Nguyễn Đức Lập chừng như thêm hứng, anh Lập kể chuyện… rằng:

 

“Thầy Thông Chánh có con gái đoạt giải Huê khôi Đông Dương (Việt-Mên-Lèo). Tên cô là “Cô Ba Thiệu” hay “Cô Ba Trà Vinh” (vì sanh ra ở Trà Vinh) nhưng câu chuyện của thầy Thông Chánh cầm súng bắn quan biện lý Tây chết queo là liên quan đến má của Cô Ba Trà Vinh chớ không phải là cô Ba. Má cô Ba cũng đẹp thuộc hạng đệ nhất mỹ nhân phương Nam chúng ta.
CÔ BA 1

Vợ thầy Thông Chánh Nhan sắc diễm kiều, đã khiến cho thằng biện lý Tây tên Jaboin mê mệt, si tình, tán tỉnh và khi bị cự tuyệt thì hắn ta tìm mọi thủ đoạn chiếm bà cho bằng được (nhưng sức mấy mà chiếm được, khi hắn chưa giở hết thủ đoạn thì án mạng xảy ra).

“Không thể mất vợ, thầy Thông Chánh đã thiệt lẹ như cờ, Bắn quan Biện lý suối vàng vong thân.” Và vì thế thầy bị bọn Tây lang sa xử tử hình ngày 8 tháng 1 năm 1894. Con gái thầy, cô Ba Thiệu cầm súng trả thù nhưng bị bắt và cô tự tử trong tù.

“Thơ, dè (vè) Thầy Thông Chánh được dân Trà Vinh và cả miền Nam truyền tụng hà rầm…

Anh Trần Lam Giang góp lời:

- “Cô Ba” là hoa khôi đầu tiên đoạt vương miện ở Sài Gòn, lại là con của thầy Thông Chánh, ông quan thông dịch này dám cầm súng bắn tên biện lý Tây để bảo vệ “người đẹp” của mình thì quả là một người đáng được ngưỡng mộ!

Câu chuyện về “cô Ba Trà Vinh” tức “cô Ba Thiệu”, “người mẫu” được ông Trương Văn Bền chọn làm thương hiệu xà bông do ông sản xuất được thêu dệt, thêm bớt thật là mê ly…

Câu chuyện Việt Quốc khởi nghĩa thất bại, bị tây xử tử hình đã thôi thúc thương gia Trương Văn Bền phục nguyên dòng máu nhà nòi cách mạng (của tổ tiên phản Thanh phục Minh). Và, có thể, trong tâm thức ông, đã vừa xúc động, vừa cảm khái lịch sử Thầy Thông Phán và con ông: cô Ba Thiệu, cô Ba Trà Vinh.

CÔ BA BƯU THIẾP WIKIPEDIA
Hình và chú thích Wikipedia

Chọn “Cô Ba” (Trà Vinh) làm thương hiệu cho xà bông do mình sản xuất, ông Trương Văn Bền đã chọn huê khôi thiệt, có đoạt giải do Tây tổ chức ở Sài Gòn đàng hoàng, để cạnh tranh với cô đầm mà Savon de Marseille chọn in trên xà bông của họ sản xuất.

Bởi thế “xà bông Cô Ba” ăn đứt. Bán chạy như tôm tươi. Chẳng những tại xứ ta mà còn cả bên Miên, bên Lào nữa.

(Thú thiệt, hồi ấy anh Lập, anh Giang, anh Thiêng kẻ kể, người thêm câu chuyện Cô Ba Huê Khôi Đông Dương nhưng làm sao mà tui nhớ cho hết, cho mạch lạc trước sau, nên nay bị SiteAdmin thúc kể, viết lại… Tui phải mua xôi gà dzái sư phụ “gu-gồ” (Google) và chọn sự tích như vầy😊)

CÔ BA TEM THƯ WIKIPEDIA
Hình và chú thích Wikipedia

 

Theo Wikipedia tiếng Việt, Ba Thiệu (hay Cô Ba Trà Vinh) là một người phụ nữ nổi tiếng ở Sài Gòn xưa, cô được biết đến là người đăng quang trong cuộc thi hoa hậu Miss Sài Gòn và là phụ nữ Việt Nam đầu tiên xuất hiện trên con tem bưu điện. Ba Thiệu quê gốc Trà Vinh, con gái thứ ba thầy Thông Chánh, công chức của chính quyền Pháp lúc bấy giờ. Sinh ra trong một gia đình gia giáo, từ nhỏ cô đã được cha cho đi học và dạy phép tắc lễ nghi. Theo học giả Vương Hồng Sển, Ba Thiệu sở hữu vẻ đẹp "không ai bì, đẹp không vì son phấn giả tạo". Có đoạn Vương tiền bối viết như sau: “Kể về người đẹp trong Nam, xưa hơn hết, có cô Ba, con thầy Thông Chánh - Thông Chánh dám xách súng bắn biện lý Tây Jaboin ở Trà Vinh, năm xửa năm xưa, con là cô Ba được hãng xà bông Việt Nam in lại hình trên mỗi viên xà bông bán chạy vo vo”. Đời cụ Sển có nhiều cái thú, trong đó có thú cổ ngoạn và si người đẹp. Nên trong các tập sách của cụ đều phảng phất bóng giai nhân. Bởi thế trong Sài Gòn xưa, cụ Sển lại tả tiếp cô Ba: “Trong giới huê khôi, nghe nhắc lại, trước kia, hồi Tây mới đến, có cô Ba, con gái thầy Thông Chánh, là đẹp không ai bì; đẹp tự nhiên, không răng giả, không ngực keo su nhơn tạo, tóc dài chấm gót, bới ba vòng một ngọn, mướt mượt và thơm phức dầu dừa mới thắng, đẹp không vì son phấn giả tạo, đẹp đến nỗi nhà nước in hình vào con tem Nhà thơ Dây thép (Bưu điện), và một hiệu buôn xà bông xin phép họa hình làm mẫu rao hàng: xà bông Cô Ba; muốn biết danh tiếng bực nào xin ráng tìm các bà cỡ 1900 hỏi lại!".

(Vương học giả biểu kiếm các cụ sanh khoảng năm 1900 để hỏi, má ơi, chúng ta ngày nay hậu hậu bối làm sao mà tìm cho ra các cụ sống trên 200 tuổi! Weo, dẫu sao cũng cảm ơn cụ Sển vậy!)

Lại có báo (Thanh Niên) viết rằng:

Nếu vào Google gõ tên cô Ba Thiệu Trà Vinh, cô Ba xà bông sẽ thấy hàng trăm chi tiết trên các trang báo mạng như cô Ba Trà Vinh là một trong “tứ đại mỹ nhân Sài Gòn” xưa gồm cô Ba Thiệu, Ba Trà, cô Tư Nhị và cô Sáu Hường. Nhiều trang mạng còn nêu cô Ba Thiệu là vợ Trương Văn Bền và chính ông đã tận dụng nét đẹp đài các của vợ in hình trên xà bông? Còn trong Sài Gòn tạp kỹ (sgtt.vn) có ghi lại rằng một người đẹp thuộc hàng “đại mỹ nhân” của Nam kỳ vào đầu thế kỷ trước, đó là cô Ba Thiệu ở Trà Vinh, người mẫu đầu tiên của Việt Nam, sản phẩm là cục xà bông Cô Ba vang bóng một thời. Cô là vợ nhà tư sản Trương Văn Bền và được ông chọn làm người mẫu in hình lên sản phẩm xà bông của hãng mình vào năm 1930.

Đến đây lại phát sinh chi tiết lý thú vì hãng xà bông ông Bền quá nổi tiếng không cần bàn cãi thêm. Riêng chi tiết cô Ba là vợ ông Bền lại mâu thuẫn với tập thơ thầy Thông Chánh vì trong tập thơ có ghi rõ: cô Ba Thiệu lấy chồng Tây lúc 17 tuổi (có sách ghi là 15).

Số phận bí ẩn ?

Nói về cô Ba khi hay cha mắc nạn đã đùng đùng: Thứ này đến thứ cô Ba/mới mười bảy tuổi lấy chồng người Tây/nghe cha mắc phải nạn này/... tay cầm súng sáo miệng hầu kêu xe/...  mau chân bước tới châu thành/tai nghe quan soái xử mà làm sao/Nếu mà xử hiếp cha rày/Ta bắn ngươn soái phát nay mới đành/cha ta dù thác bỏ mình/cũng trong đạo Chúa cầu xin thiên đường/Mã tà phú lích áp vào/Cô Ba bèn đá té nhào sảy tai/Ta không thù oán chi bây/để ta đánh với người Tây mới tài”. Vì cô Ba giỏi võ đánh bạt văng mã tà nên Phủ Hơn giả đò khuyên lơn rồi bất thần: “Phủ Hơn rình lại nắm đầu/Phủ Bình giựt súng nắm đầu cô Ba/Cả kêu phú lích mã tà/Đem còng nó lại bỏ ngoài đề lao (trích tập thơ thầy Thông Chánh). Nhưng đoạn thơ này tới đây là ngưng nói về cô Ba, nên không ai rõ sau đó số phận cô Ba ra sao, bị xử thế nào.

Cũng báo này viết tiếp: “Bà Nguyễn Thị Bạch Yến (77 tuổi), là cháu cố của thầy Thông Chánh đang ngụ tại TP.HCM, lại nhớ mang máng. Bà Yến nói nghe cha, ông kể lại sau khi gây ra náo loạn với quan soái, cô Ba bị nhốt rồi dưới áp lực của Tây, cô và người chồng Tây đã ly dị. Còn lại thì quãng thời gian sau bà không biết hết số phận cô Ba.” (Hết trích)

Nhiều người kể tích, thuật điển xưa có lúc hùm bà lằn nhập nhơn vật này lộn qua lộn lại. Cô Ba Trà Vinh là cô Ba Thiệu con thầy Thông Phán, không phải cô Ba Trà kỹ nữ lừng danh đất Sài Gòn. Có dịp tui (Co Khanh) sẽ kể. Bên các nghệ sĩ cải lương cũng có cô đào nổi tiếng là “Cô Ba Trà Vinh” tên thiệt là Trần Thị Tân, sanh năm 1917 (già hơn cô Ba Thiệu quê ở Trà Vinh con thầy Thông Chánh này nhiều).

Theo một số nguồn sách báo khác nhau, ở Sài Gòn năm 1865 đã diễn ra cuộc thi hoa hậu với tên Miss Sài Gòn tìm người đẹp người Việt, sau cuộc thi trước đó phần lớn dành cho công dân nước ngoài định cư tại đây vào 1864. Ngoài những người trong thành phố, cuộc thi cũng cho phép dân ngoại thành về thi. Vượt qua gần 100 thí sinh khi đó, cô Ba Thiệu (con thầy Thông Chánh), làm nghề thư ký, đã trở thành người chiếm ngôi vị cao nhất. Cô được xem là người Việt Nam đầu tiên đăng quang vương miện hoa hậu ở Việt Nam.

Tiếp theo các nguồn này, sau cuộc thi, cô Ba Thiệu đã trở nên nổi tiếng khắp Đông Dương, là chủ đề của nhiều câu hò, câu dè (vè) lan truyền toàn xứ, khắp ngõ ngách Lục Tỉnh Nam Kỳ quốc của chúng ta vào cuối thế kỷ 19. Những tay phong lưu Pháp khi ấy đã mời cô sang chính quốc để giới thiệu và sau đó là tham dự các cuộc thi hoa hậu thế giới, thế nhưng cô và gia đình đã phản đối. Cô Ba Thiệu từng được nhiều phóng viên Pháp khi đó đề nghị chụp ảnh trong trang phục áo tắm để đăng ở báo chính quốc, tuy nhiên cũng bị cô từ chối luôn. Dù có được danh tiếng từ cuộc thi, cô Ba Thiệu đã sớm về quê và đi lấy chồng. Có nguồn ghi cô thành hôn cùng một ông Tây làm chức quan ba, trong khi nguồn khác nói cô lấy người Việt Nam bình thường.

Đã có nhiều giai thoại về cuộc sống sau này của cô Ba Thiệu. Vào năm 1893, cha cô là thầy Thông Chánh nổ súng bắn chết một tên biện lý người Pháp tên Jaboin sau nhiều lần vợ ông bị sĩ quan đưa lời tán tỉnh, trêu ghẹo và gia đình ông bị chèn ép, theo dõi. Sự kiện này đã gây xôn xao lớn trong xã hội đương thời. Thầy Thông Chánh phải chịu án tử hình ngày 8 tháng 1 năm 1894 tại Trà Vinh. Trong truyện Thơ thầy Thông Chánh lan truyền dân gian, sau khi cha bị xử tử, cô Ba Thiệu được cho là đã cầm súng toan trả thù nhưng sau đó bị bắt giam và tự tử chết. Cũng theo lời kể một người cháu cố thầy Thông Chánh, bởi hành động trên của mình, cô Ba bị gây áp lực buộc chia tay với người chồng Tây. Tuy nhiên, có nguồn nêu cô sau khi lấy chồng thì sống một cuộc sống giản dị, khiêm tốn tới cuối đời.

Vào đầu thế kỷ 20 hoặc sớm hơn, nhà nước Đông Dương đã cho in hình một người phụ nữ nước Nam búi tóc lên tem. Theo Vương Hồng Sển và một vài nguồn khác, người này là cô Ba Thiệu, với lý do họ thấy cô "quá đẹp". Đây là con tem của Sở Bưu Điện Sài Gòn in ra với số lượng phát hành "lớn chưa từng có ở Đông Dương", và cô được coi là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên xuất hiện lên tem bưu điện. Cũng dựa trên nhiều sách báo sau này, hình ảnh người phụ nữ trên sản phẩm Xà Bông Cô Ba, ra mắt lần đầu năm 1932, chính là cô Ba Thiệu. Dù có những nguồn trái chiều về thân phận của người phụ nữ, hãng xà bông theo thời gian đã gắn liền với tên tuổi cô Ba (Thiệu).

Câu chuyện “cô Ba” lên hình xà bông của ông Trương Văn Bền và cô Ba huê khôi Đông dương ở cái tượng đồng mà Thơ Dziện Việt Nam Little Saigon mình có được cũng vẫn là một bí mật: Nguồn gốc của bức tượng này.

Bức tượng này có đi tị nạn theo ông Lê Hưng, trước khi ông trao cho người em, tên là Lê Thức, để ông Lê Thức mang ra tặng cho nhóm Thơ Dziện Việt Nam?


CO KHANH
Tháng 10 năm 2023, viết tại Địa đàng hạ giới Little Saigon


ĐỌC THÊM:

BỘ BÁT DĨA BÁT TRÀNG TỊ NẠN VIỆT CỘNG 2 LẦN 1954 & 1975

BÀN ỦI CON GÀ: "ĐỒ QUÝ" Ở THƯ VIỆN VIỆT NAM LITTLE SAIGON

THƠ DZIỆN CỦA CHÚNG TA DỄ THƯƠNG LÀM SAO!




Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Nhìn lớp bụi vươn trên hàng tủ dọc cửa ra vào thư viện, độc giả có thể "đoán" ra tuổi của những chiếc tủ tự đóng này. Tủ "già" nhưng có nhiều đồ quý còn già hơn nhiều. Đặc biệt là các tủ đựng sách báo cũ, trước 1975 của Việt Nam Cộng Hòa, một vài cuốn vào thời Pháp thuộc. Kệ sách cũng do các thiện nguyện viên (đa số là Hướng Đạo Sinh) đóng tặng. Ở một góc trên cao là bảng hiệu "Thư Viện Việt Nam", là "tác phẩm" bằng tay của Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng thực hiện qua nghệ thuật xử dụng dây dừa (ngón nghề của Hướng Đạo Sinh)... Thư viện của chúng ta quá là dễ thương...
Tên nước ta một thời là “Xích Quỷ”, có người phịa nghĩa là “quỷ đỏ” (cho hợp với quỷ đỏ cộng sản đang cai trị nước ta?); cũng có người bịa ra cho rằng vua nhà Thanh bên Tàu “ban” cho tên nước ta là “Việt Nam” (trong khi bọn Tàu của chúng chưa từng có quốc hiệu mãi cho đến năm 1911, cách mạng Tân Hợi thành công thì nước Tàu mới có tên nước là Trung Hoa Dân Quốc). Nhà văn, nhà giáo Trần Lam Giang cho chúng ta biết rõ ý nghĩa của quốc hiệu mà tổ tiên chúng ta chọn.
Bài này được trích từ cuốn Kỷ Yếu Thư Viện Việt Nam năm 2000 (một năm sau ngày thành lập). Bị đòn, bị học 1 bài học để đời, nhưng với tuổi trẻ háo thắng, tôi không bao giờ tin rằng “càng học càng ngu”. Tin làm sao được khi con đường học vấn cứ thẳng tắp, lấy hết văn bằng này tới văn bằng kia và ra trường với 1 nghề vững chắc, trong khi mặt còn non choẹt, còn búng ra sữa, phải xin phép cha để râu mép, cho được gìa dặn thêm 1 chút (phải xin phép để râu vì cha tôi quan niệm rằng: “Cha chưa chết, con không được để râu”). Cho đến khi lăn lộn ngoài đời, tôi mới biết rằng có rất nhiều điều mà sách vở và học đường không hề dạy. Học đường học chợ, học trên báo chí, nghe lóm những bậc trưởng thượng, thấy rằng kiến thức của mình “thiên bất đáo, địa bất chí”, càng học càng thấy ngu...
Người Việt từ thế kỷ thứ 19 trở về trước thường tin rằng bệnh tật là do giới “vô hình” hoặc “siêu hình” gây ra. Người ta tin rằng bệnh tật sinh ra vì chạm vía, tà ma yêu quái, thần thánh quở phạt, gặp năm sung tháng hạn, động chạm mồ mả, không đúng phong thủy, bị trù ếm, bị bỏ bùa, v.v... Cũng vì nghĩ như thế cho nên các cách chữa bệnh tùy theo trường hợp mà người ta tìm cách trấn áp. Ví dụ trẻ sơ sinh có người dữ vía tới thăm mà khóc không ngừng, người nhà phải đốt vía, dùng lá nón mê hoặc cây chổi cũ vừa đốt vừa đọc câu chú đuổi vía dữ. Người mẹ mới sinh con mà bị băng huyết cũng cho là vì gặp vía dữ. Trường hợp hay thấy là dùng tàn hương nước thải cho người bệnh uống. Những người bị bệnh đi nhờ các ông đồng bà cốt cầu xin thần linh cấp bùa để đeo hoặc cho bùa để người bệnh đốt hòa với nước thải rồi uống. Nếu cho rằng bệnh vì tà ma yêu quái thì người mình lo sửa lễ cúng vàng mã, hương hoa, xôi rượu, hoặc mời thầy trừ tà ma trị quỷ…
Thư Viện Việt Nam đã có dịp giới thiệu đến quý vị nhiều bài biên khảo về lịch sử, văn hóa nhưng lần này, chúng tôi hân hạnh giới thiệu bài biên khảo công phu của tác giả NgôThị Quý Linh về một đề tài hiếm khi được khảo luận kỹ lưỡng và sâu sắc: “Sự quan trọng của Luân Lý trong đời sống xã hội”. Bài viết dài 108 trang với những trích dẫn tư tưởng của các bậc hiền triết Đông Tây kim cổ trên thế giới và của nhiều danh sĩ đất Việt theo thứ tự thời gian. Bài còn có những hình ảnh sinh hoạt hiếm quý của người Việt thời đầu thế kỷ thứ 20, những hình ảnh thân thương của nền giáo dục nhân bản thời thập niên 1950-1970…. Hơn bao giờ hết, vào thời buổi này, dù ở xứ sở nào, xã hội nào chăng nữa, Luân Lý trong đời sống xã hội là một vấn nạn lớn rất cần phải quan tâm. Xin mời quý vị từ tốn cùng lật từng trang đọc…
Hân hạnh giới thiệu Biên khảo “Tên Họ Hai Bà Trưng” của tác giả Đỗ Hoàng Ý. “… Thật đáng quan tâm là đến nay đã gần hai ngàn năm sau thời Hai Bà Trưng, chúng ta vẫn chưa biết được chắc chắn điều nào thực, điều nào hư trong số những điều được ghi chép trong các thần tích, ngọc phả, trong các sử sách xưa về những cuộc khởi nghĩa oai hùng đó. Ngay cả tên họ của Hai Bà đến nay hậu sinh chúng ta vẫn không biết người Việt cổ phát âm như thế nào? Họ của Hai Bà là Lạc, là Trưng, hay là không có họ?... Quý bạn có thể tìm đọc thêm “Khảo Luận Về Cổ Thư Tàu”...
1- Đầu tiên là đại học Cambridge, Hoa Kỳ, vào năm 1986, ghi thuật chi tiết việc kiến trúc Tử Cấm Thành vào thời Minh Thành Tổ, do kiến trúc sư Nguyễn An, người Việt Nam đảm trách. 2- Tháng 9 năm 2008, Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam tại Little Saigon, California, cho xuất bản tác phẩm Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Đông của tác giả Du Miên. Đề tài người Việt Nam vẽ kiểu và xây Tử Cấm Thành Bắc Kinh chiếm ¼ nội dung tác phẩm. 3-Tháng 11 năm 2008, đài truyền hình ZDF Dokukanal (Germany) thực hiện bộ phim Tử Cấm Thành Bắc Kinh : Bản Di Chúc Của Một Bạo Chúa, một lần nữa làm sáng tỏ thêm về tác giả công trình kiến trúc đồ sộ bậc nhất thế giới này : Nguyễn An, một tù binh Việt Nam. Bộ phim do đài truyền hình Đức thực hiện; được phụ đề Việt ngữ vì nội dung của cuốn phim nhằm ca ngợi công trình kiến trúc tuyệt vời của một người Việt Nam, mà người Tàu "Cầm Nhầm" hàng mấy trăm năm qua, nay đã bị thế giới phanh phui...
lovelittlesaigon.org Thư Viện Việt Nam hân hạnh giới thiệu bài biên khảo mới nhất (2023) của tác giả ĐỖ HOÀNG Ý: “Khảo luận tổng quát một số ghi chép trong cổ thư Tàu liên quan đến lịch sử Việt thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa”. Tác giả đã dẫn nhiều cổ sử, bản đồ tổng hợp từ nhiều nguồn, chứng minh những gì sử của nước ta và chính những sử sách xưa nhất của người Tàu cũng đều “ghi lại” sau khi “nghe dân gian lưu truyền” từ mấy trăm năm hay cả ngàn năm sau… Mời quý vị cùng đọc…
Theo thầy Hương Giáo Nguyễn Đức Lập và anh Du Miên kể thì, trước khi nhóm sáng lập truyền “hịch thu gom” sách và đồ quý lập Thơ Dziện, một hôm Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ gọi Du Miên bảo ghé nhà nhận bàn máy đánh chữ. Hỏi thêm thì được biết bàn máy đánh chữ có dấu Việt Nam. “Tôi cho cậu vì cậu còn làm báo.” Bàn máy này theo chân Thiếu tướng Kỳ tị nạn 1975. Ông vẫn giữ trong nhà tuy rằng chưa bao giờ dùng đến. Khi nhà thơ Hoàng Anh Tuấn thấy chiếc máy đánh chữ này, ngỏ ý muốn “mượn” để đánh bài vì anh quen viết bài bằng máy đánh chữ. “Bấy giờ vợ chồng Du Miên- Ngọc Hà xuất bản tờ Trường Sơn, anh Hoàng Anh Tuấn ngày nào cũng có mặt tại tòa soạn và dùng bàn máy chữ này để làm thơ hay viết bài (đầu thập niên 1980). Lúc bấy giờ (anh Lập giữ vai trò Ttk Tòa soạn), ngoài Hoàng Anh Tuấn còn có Lê Tử Hùng, Đinh Hiển (Họa sĩ Hĩm), Đông Duy, Nghi Thụy...
Quyển sách 330 trang đúc kết từ những dữ liệu lịch sử với nhiều hình ảnh chi tiết về cộng đồng người Việt ở Little Saigon, Nam California từ năm 1975 mà chính tác giả là nhân chứng trong hơn 48 năm sinh sống tại nơi này. - DU MIÊN, Nhà báo/Đồng tác giả sách: "Một số những người năm 1975 ở trong vùng này đã chết rồi, và chúng tôi đã trải qua nhiều cái khó khăn về sức khoẻ, chưa biết là mình sống và mình chết ngày nào, và sự ra đi của một vài người bạn có công lớn nhất với cái sự hình thành của Little Saigon là mục sư tiến sĩ Nguyễn Xuân Đức của nhà thờ Saint Anselm tin lành, và Đốc sư Phùng Minh Tiến mới vừa mất một năm, hai năm vừa qua, nó thôi thúc chúng tôi là nếu chúng ta không có viết lại thì các em các cháu sau này sẽ làm lạc hay là nó không biết được cái nguồn gốc thật sự của nó." Ông Du Miên là một nhà báo từ trước năm 1975. Ông cũng là một trong bốn thành viên sáng lập ra tờ báo tiếng Việt xuất bản đầu tiên ở Mỹ có tên Hồn Việt, vào tháng 11 năm 1975...
VHV FOUNDATION - THƯ VIỆN VIỆT NAM
VIETNAMESE CULTURAL CENTER

10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843
E-mail: info@lovelittlesaigon.org