BÀI MỚI NHẤT
07 Tháng Mười Một 2025(Xem: 121)
Trong suốt hơn 100 năm nay, người Việt của ba, bốn thế hệ đều quen thuộc với câu ca dao thật mộc mạc, phổ thông đã thấm sâu vào hồn bao người. Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Điểm đặc biệt là hai câu ca dao này không những đã vượt thời gian mà còn vượt cả không gian, đi đến miền nào trên đất Việt đều được người miền ấy uyển chuyển thay đổi đôi ba địa danh để địa phương hóa hai câu nghe thật thỏa nguyện. Từ miền Bắc nghe văng vẳng nơi chốn Hà Nội: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Đến miền Trung trên dòng sông Hương lại nghe rõ câu ca: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. Ấy thế mà vào đến trong Nam cũng chừng đó “gió đưa”, “tiếng chuông”, “canh gà” mà lại biến hóa thành: Gió đưa tàu chuối la đà, Tiếng chuông Xá Lợi, canh gà Thủ Thiêm. (trích từ bài: Thọ Xương hay Thọ Cương -Thái Văn Kiểm, 2001) ...
01 Tháng Tư 2025(Xem: 2030)
Vào lúc 11 giớ sáng Chủ nhựt 30 tháng 3 năm 2025 phòng sinh hoạt của Thư Viện Việt Nam góc đường Westminster và Euclid đã không còn chỗ trống. Trên 250 quan khách và đồng hương đã đến đây - như thông lệ hàng năm - để nhận 1 cuốn sách bằng tiếng Anh có nội dung độc đáo: Viết về lịch sử hình thành Little Saigon. Cuốn sách dày 310 trang, ghi lại diễn tiến từ 1975 đến 2024 tất cả những sinh hoạt liên quan đến sự hình thành của Little Saigon. Tác giả là 2 nhà báo sống tại Little Saigon ngay từ lúc khởi đầu, đã sưu tập tài liệu và nhất là hình ảnh để đưa vào tác phẩm. Trong buổi ra mắt sách, tác giả công phu mời các nhân vật làm business hay sinh hoạt tại Little Saigon từ lúc khởi đầu đền trực tiếp nói chuyện với quan khách...
25 Tháng Ba 2025(Xem: 1950)
Nạn đói năm Ất Dậu 1945 để lại những nỗi đau đớn tột độ cho những người sống sót và ấn tượng kinh hoàng cho những người đã chứng kiến. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại xảy ra một biến cố thảm thương như thế.Hoàn cảnh và những nguyên nhân nào đã đưa đến nạn đói năm Ất Dậu? Mời độc giả tìm đọc trong bài viết này với nhiều chi tiết gây xúc động mạnh mặc dù sự việc đã xảy ra 80 năm trước đây.
12 Tháng Giêng 2025(Xem: 5684)
In the final days of May, 1975, it was a time of book persecution for the people of South Vietnam. As soon as the Communists seized Saigon, they hastily ordered the confiscation of all South Vietnamese books and newspapers, which they labeled as "decadent and reactionary culture."
12 Tháng Hai 2024(Xem: 2574)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
18 Tháng Giêng 2024(Xem: 3669)
Đài VNATV thực hiện 2 videos về buổi lễ tưởng niệm Nhà văn, Nhà báo, Nhà giáo Trần Lam Giang tại Phòng Sinh Hoạt Thư Viện Việt Nam Little Saigon (Vietnamese Cultural Center - VHV Foundation), 10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843. Tổ chức trong nội bộ và một số bạn học cùng thời với người quá cố.
12 Tháng Giêng 2024(Xem: 2415)
Trong cuộc nội chiến, hai kẻ địch văn hóa là : - Văn hóa cổ truyền hay văn hóa Sài Gòn thì mọi người dân Việt ở hải ngoại hay quốc nội đều hay biết vì hiện đang sống với , - Văn hóa XHCN thì ở miền Nam ít người biết đến vì 2 lý do sau : 1) Cuộc sống ngắn ngủi 10 năm (1975-1986) của văn hóa XHCN tại miền Nam, 2) Hầu như không có tác giả nào cả quốc gia lẫn cộng sản viết về văn hóa XHCN và cuộc nội chiến văn hóa Bắc Nam. Đó là lý do chúng tôi dành phần 1 và phần 2 cho văn hóa XHCN và phần 3 cho cuộc nội chiến văn hóa.
12 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 2881)
Tác giả ghi trong phần « Tự Luận về Bản In tại hải ngoại » : « Ba mươi năm chiến tranh (1945-1975), một cuộc chiến mà người Việt hầu như đóng vai « được mướn » để đánh lẫn nhau, là ba mươi năm tàn phá triệt để như thể một cuộc đổi đời. Ba mươi năm chiến tranh đã qua. Hơn mười năm cuồng say chiến thắng kéo theo hận thù, tù đày, cũng đã qua. « Thua » hay « Thắng » thì cả hai đều tỉnh giấc trước điêu tàn của đất nước. Một thời kỳ đại loạn chưa từng thấy trong lịch sử của dân tộc Việt. Đại loan cho đời sống vật chất. Vô cùng quan trọng nữa là đại loạn cho nếp sống tinh thần, nền móng của tổ chức xã hội. Hậu quả là trước mắt chúng ta hình ảnh một xã hội bị phân hóa và băng hoại cực độ, khiến cho đại chúng không có được một niềm tin để sống, để hành động trong tinh thần hướng thượng với ý thức giúp vào phúc lợi lâu dài của dân tộc… »
04 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 1832)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
28 Tháng Mười Một 2023(Xem: 2059)
“Năm Quý Mùi (1943) là năm trăng mờ gió thảm, tiếng chiến tranh inh ỏi khắp hoàn cầu, toàn xứ Đông Dương bị quân Nhật Bản tràn vào, họa chiến tranh mỗi ngày một lan rộng. Dân Việt Nam bị đói kém đau khổ đủ mọi đường, lại căm tức về nỗi nước nhà suy nhược phải bị đè nén dưới cuộc bảo hộ trong sáu bẩy mươi năm, cho nên ai cũng muốn nhân cơ hội ấy mà gây lại nền độc lập đã mong mỏi từ bao lâu. Tôi là một người nước Việt Nam, lẽ nào lòng tôi lại không rung động theo với dịp rung động của những người ái quốc trong nước? Nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, lòng người ly tán, nhiều người lại muốn lợi dụng cái tiếng ái quốc để làm cái mối tư lợi cho mình, vì vậy mà tôi chán nản không dự vào đảng phái nào cả, mà cũng không hành động về phương diện chính trị. Ngoài những lúc làm những công việc hàng ngày phải làm, khi rỗi rãi gặp những bạn thân, nói đến chuyện thiên hạ sự và việc nuớc nhà, thì tôi cũng nói chuyện phiếm và mong cho nước nhà chóng được giải phóng…”

DỦ HỌC DỦ NGU

03 Tháng Mười Một 20236:44 CH(Xem: 8470)
ANH LẬP 6
DỦ HỌC DỦ NGU
NGUYỄN ĐỨC LẬP

ANH LẬP 1
Nhà văn Nguyễn Đức Lập trong buổi ra mắt tác phẩm BÁCH VIỆT TIÊN HIỀN CHÍ tại Thư Viện Việt Nam

Vài hàng về
Nhà văn NGUYỄN ĐỨC LẬP
(1945-2016)


Nguyễn Đức Lập, tự là Chánh Phương, nhiều bút hiệu: Chánh Phương, Hương Giáo, Ngô Phụng Anh; thỉnh thoảng ký tên rừng “Sóc Vui Vẻ”.

Anh sinh năm dân Việt Nam chết đói tràn lan, năm Tân Dậu 1945, tại Tư Nghĩa, Quảng Nghĩa. Con trai thứ của nhà thơ-nhà báo Hồng Tiêu – Nguyễn Đức Huy (1902-1985) và nhà văn nữ Tùng Long – Lê Thị Bạch Vân (1915-2006), một tác giả nổi tiếng tại miền Nam trước 1975 (Độc giả luôn trìu mến gọi bà là “Bà Tùng Long”, lừng danh với mục “Gỡ Rối Tơ Lòng” trên tờ Sài Gòn Mới của bà Bút Trà).

Anh có chín anh chị em. Trong đó có Nhà thơ Trạch Gầm (là anh) và Nhà văn Nguyễn Đông Thức (là em).

Anh học trung học Pétrus Ký. Tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, nguyên luật sư Tòa Thượng Thẩm, Sài Gòn.

Sau 30 Tháng Tư, 1975, Anh bỏ thành đô lên rừng làm rẫy ở ấp Phước Lập, xã Phú Mỹ, tỉnh Biên Hòa.

Năm 1980, Anh vượt biên đến trại đảo tị nạn Palawan, Bataan, Philippines. Tại đây Anh và các Huynh trưởng thành lập Liên Đoàn Ra Khơi (truyền thống Phong Trào Hướng Đạo Việt Nam). Sau này khi đã định cư ở Hoa Kỳ, Anh vẫn còn thường lui tới sinh hoạt, hướng dẫn cho các đoàn sinh Ra Khơi đến tận năm 2006, khi chính phủ Hoa Kỳ và Canada một lần nữa ra tay đón nhận thuyền nhân Việt Nam còn kẹt lại Phi (vô tổ quốc).

Anh tị nạn tại Hoa Kỳ năm 1983, nối nghiệp thân mẫu, ngày đêm sáng tác và xuất bản sách.

Khi bước xuống ghe lênh đênh tìm tự do, Anh bỏ lại văn bằng Luật sư, bắt đầu phóng bút để đẩy mạnh hơn cuộc đấu tranh cho dân tộc Việt.

Sau khi báo Tin Việt của Ký giả Nguyễn Thượng Hiệp đình bản, Anh được cặp Ngọc Hà – Du Miên mời về làm tổng thơ ký cho các báo Thời Báo, Sân Khấu, Người, Nguyệt san Người Việt Tự Do (xuất bản tại Little Saigon, quận Cam).

 

Anh góp sáng tác đều cho nhiều báo: Làng Văn (Canada), Hoa Thịnh Đốn Việt Báo, Nhân Văn, Văn Học, Đường Sống, Hoa Sen, Sức Sống, Trẻ (Dallas) v.v… và nhiều đặc san của các Hội Ái Hữu, các Thiền Viện v.v…

 

Đa số sách của Anh được nhà xuất bản Hoa Gấm và Thời Báo in và phát hành.

 

Ngoài Phong trào Hướng Đạo, Anh còn cùng các Anh Trầm Tử Thiêng (Nhạc sĩ) và Trần Lam Giang (Nhà văn) thường đi thuyết trình, hướng dẫn cho giới trẻ thuộc nhiều tổ chức giáo dục thanh thiếu niên tại hải ngoại.

 

Đầu thập niên 1990 Anh cùng nhiều Anh Chị Em cùng chí hướng mở khóa đào tạo “Việt Nghĩa Đoàn” tại Anaheim, California, Hoa Kỳ quy tụ các thanh thiếu niên sinh hoạt các đoàn thể trẻ khắp thế giới. Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng sáng tác “Việt Nghĩa Đoàn Hành Khúc”, thu âm qua hai giọng ca Khánh Ly và Ngọc Minh, tập hát cho hơn 200 trại sinh trong suốt khóa huấn luyện.

 

Năm 1999, Anh cùng Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, Bác sĩ Nha khoa Võ Trọng Di, Nhà văn Trần Lam Giang và Nhà báo Du Miên thành lập Thư Viện Việt Nam (Nhân Ái Foundation, Vietnamese Cultural Center, VHV Foundation), Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam trụ sở tại Garden Grove, California, Hoa Kỳ.

 

Anh mất năm 2016 tại Houston, Texas.

 

Trong buổi lễ tưởng niệm Anh tại Thư Viện Việt Nam, Nhà văn Trần Lam Giang nói: “Nguyễn Đức Lập là người hiền chứ không lành. Trước năm 1975, Lập cùng bạn đồng nghiệp thành lập Đoàn Luật Sư Công Chính để ngăn chặn những luật sư không công chính, dùng luật pháp để bảo vệ thiểu số chống lại đa số, và số người bị oan ức khá nhiều. Đoàn Luật Sư Công Chính của Lập nhận cãi cho người cô thế mà không lấy tiền, điều này dĩ nhiên mất nồi cơm của những người không công chính. Vì vậy phải có đụng độ, và Lập đã đụng độ kể cả bằng sức lực. Như vậy thì không lành đâu!”

 

Quả đúng như anh Trần Lam Giang kể, Anh Nguyễn Đức Lập từ khi còn là Sinh viên trường Luật vẫn kẹp kè kè trong mấy cuốn sách “vũ khí” (của sinh viên, học sinh: cây viết đầu nhọn và cứng) để tự vệ (khi bị tấn công) hoặc có lúc phải “thị uy” với đám nằm vùng hoạt động cho Việt Cộng tại Đại học Luật khoa Sài Gòn. Nhiều bạn cùng trường với Anh vẫn nhắc chuyện Anh từng cầm bút nhọn rượt bọn “rủ rê sinh viên bỏ vô khu” (Cục R Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) té khói.

 

Hãy nghe bào huynh của Anh, nhà thơ Trạch Gầm kể về em của mình (Nhà văn Nguyễn Đức Lập): “Từ lúc mới sinh em tôi thường khóc, thở không nổi nên ốm yếu, gia đình nuôi nấng rất khó nhưng không tìm được nguyên do. Khi em tôi học năm thứ hai ở trường Luật, được một người quen là bác sĩ chuyên khoa về tim ở Pháp chẩn bệnh, thì phát giác trong tim của em tôi có một lỗ thủng. Hồ sơ bệnh lý chuyển vào bệnh viện Cộng Hòa để được miễn trừ quân dịch vĩnh viễn nên em tôi tiếp tục con đường học vấn. Lập học giỏi nhất trong số các anh em trong nhà, và có trí nhớ rất siêu phàm…”

Qua đó, biết là Anh không khỏe người vạm vỡ sức lực siêu phàm nhưng ý chí, quyết tâm của Anh cũng biến thành sức mạnh vũ bão, qua việc rượt bọn nằm vùng, và sau này, trên văn đàn, ngòi bút của Anh chưa hề cong bao giờ.

Ông Hoàng Đình Khuê, sinh viên Võ Bị Quốc Gia Việt Nam khóa 16, đánh giá tinh thần của Anh Nguyễn Đức Lập: “Lập có một cuộc sống giản dị, hiền lành nhưng rất cộc tính. Tôi phục con người của Lập vì có lập trường cứng rắn, có tinh thần chống Cộng triệt để theo cách suy nghĩ và quan điểm độc lập của riêng mình. Tôi thích tính ba gai, cố hữu của Trạch bao nhiêu thì thương cái tính hiền lành, thư sinh của Lập bấy nhiêu. Lập là một huynh trưởng Hướng Đạo, có lẽ vì vậy mà con người của Lập đã ảnh hưởng bởi cuộc sống Hướng Đạo nên em lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ cho người, phục vụ cho đời.”

Một đồng nghiệp, Luật sư Đỗ Thái Nhiên (Nguyễn Phương Minh) thì: “Anh Lập có vẻ bề ngoài dung dị, hiền lành, ít nói nhưng hơi cộc. Tuy nhiên Anh chỉ nổi cộc khi đứng giữa hai vấn đề thiện và ác. Anh lúc nào cũng tỏ thái độ gay gắt, tuyệt đối không có vấn đề trung lập giữa thiện và ác. Anh cho rằng Cộng Sản là tập thể cực ác, đó là ác; còn những người chống lại Cộng Sản độc tài, đó là thiện. Do đó, xin miễn nói những lời nhẹ nhàng, dịu giọng đối với Cộng Sản, đó là thái độ dứt khoát của Anh.”

Đồng nghiệp khác, Luật Sư Lê Trọng Uyên nhận xét: “Nguyễn Đức Lập có cách viết rất đặc biệt. Khi anh nói một câu chuyện về miền Nam thì dùng khẩu ngữ của miền Nam. Tuy vậy, khi nói về miền Bắc thì anh dùng những thổ âm, thổ ngữ địa phương của miền Bắc, mà chỉ những người trong vùng đó hoặc am hiểu về ngôn từ nhiều thì mới biết được. Đó là vốn quý văn hóa mà ít người có được, bởi vì đó chính là hồn quê của mỗi địa phương. Anh không lập gia đình, nhưng anh sống trong tình yêu thương của anh em Hướng Đạo. Anh đã sống một cuộc đời rất dung dị. Anh đã bỏ nửa cuộc đời mình ra chỉ để viết. Anh đã viết những điều mà rất nhiều người không viết được. Tuy nhiên, anh nói rằng anh không phải nhà văn, anh chỉ viết lại những chuyện đã xảy ra mà thôi. Và dù ở Mỹ hơn 30 năm nhưng anh không biết chạy xe. Bởi vì anh nói, nếu chạy xe thì cái chân đi nhiều, mà đi nhiều thì sẽ không tập trung viết được…”

 

Các tác phẩm đã xuất bản:

Thơ:

– Những Đêm Không Ngủ, 1986.


Truyện Ngắn:


– Cuộc Chiến Tàn Chưa, 1987

- Cặp Mắt Quay Lại, 1992

- Khung Rào Hẹp, 1992

- Lớp Trước, Lớp Sau, 1994.

Truyện Dài:


– Kiếm Đạo 1: Bảo Kiếm Tặng Anh Hùng, 1987

- Kiếm Đạo 2, Thần Thư Trao Hào Kiệt, 1987


- Ngắn Cổ Khó Kêu, 1989


- Nhứt Biết Nhì Quen, 1990


- Phong Vũ Tiêu Tiêu, Lôi Vũ Động, 1991


- Giàn Đậu Mưa Rung, 1992


- Trần Ai Khoai Củ, 1994


- Mảnh Vụn Một Đời, 1999


- Đi Trước Về Sau, 2009


Những tác phẩm của Anh chưa kịp in nay đã được người em, người học trò của anh: Nguyễn Văn Phúc đích thân đánh máy, trình bày và in phát tặng rộng rãi.

(DU MIÊN)


MỘT SỐ HÌNH ẢNH:
ANH LẬP 3
Nhà văn Nguyễn Đức Lập và Nhà báo Du Miên trong buổi tiếp tân cùng báo giới Little Saigon tại Thư Viện Việt Nam

ANH LẬP 2
Nhà văn Nguyễn Đức Lập trong buổi họp báo giới thiệu tác phẩm VIỆT NAM SUỐI NGUỒN VĂN MINH PHƯƠNG ĐÔNG
ANH LẬP 4
Lễ tưởng niệm Nhà Văn Nguyễn Đức Lập tại Thư Viện Việt Nam

ANH LẬP 5
Mỗi người một đóa hoa tưởng niệm Nhà văn Nguyễn Đức Lập


* * *

Nghe cái câu “Dủ học dủ ngu”, càng học càng ngu, dễ mấy ai tin được. Càng học thì phải càng khôn ra, cũng như gừng, quế, “dũ lão dũ tân”, càng già càng cay, mới phải cho chớ.

Hồi nhỏ, tôi học chữ Nho với thân phụ. Cha thì dạy nghiêm túc, nhưng thằng con thì học lơ là, lại thêm cái tánh rắn mắt, cắc cớ đã quen. Nên nhiều khi nó cố tình cắt nghĩa những câu chữ Nho học được theo ý của nó để cười chơi.

Học tới câu “Dủ học dủ ngu”, tôi đã dám ngồi xếp bằng chễm chệ, đã nói là cái tánh rắn mắc cắc cớ đã quen mà, cắt nghĩa cho thằng em tôi như vầy:

- “Dủ học dủ ngu”, là “càng học càng ngu”, thành ra, trò học ít thì trò ngu ít, trò học nhiều thì trò ngu nhiều, mà trò không học thì trò không ngu.

Thằng em gật đầu khoái trá, ai dè được mà cha tôi đứng ở sau lưng. Tôi bị 5 roi quắn đít và học 1 bài học nhớ đời: “chữ nghĩa thánh hiền không thể đem ra mà đùa giỡn được”.

 

Không biết ông Mai Thảo có học 1 bài học để đời như tôi vậy chăng, nhưng ông cũng nói y như vậy, chỉ có điều ông không dùng “chữ nghĩa thánh hiền”, mà ông dùng 2 chữ “văn chương”. Ông nói: “Đối với văn chương phải nghiêm túc, không đùa giỡn được”. Ông có thể lơ ngơ thất thiểu ngoài đường phố, đi bộ mà cũng bị cảnh sát công lộ phạt về tội vi phạm luật lưu thông (1). Ông có thể lè nhè nơi tiệc rượu khiến cho con nít giỡn mặt. Nhưng, khi viết, ông viết rất nghiêm túc, không bao giờ đùa giỡn với văn chương.

Bị đòn, bị học 1 bài học để đời, nhưng với tuổi trẻ háo thắng, tôi không bao giờ tin rằng “càng học càng ngu”. Tin làm sao được khi con đường học vấn cứ thẳng tắp, lấy hết văn bằng này tới văn bằng kia và ra trường với 1 nghề vững chắc, trong khi mặt còn non choẹt, còn búng ra sữa, phải xin phép cha để râu mép, cho được gìa dặn thêm 1 chút (phải xin phép để râu vì cha tôi quan niệm rằng: “Cha chưa chết, con không được để râu”).

Cho đến khi lăn lộn ngoài đời, tôi mới biết rằng có rất nhiều điều mà sách vở và học đường không hề dạy. Học đường học chợ, học trên báo chí, nghe lóm những bậc trưởng thượng, thấy rằng kiến thức của mình “thiên bất đáo, địa bất chí”, càng học càng thấy ngu.

Chưa cần nói tới những chuyện trời cao, đất rộng, biển thẳm, núi cao, sông dài chi cho xa, chỉ những câu ca dao, những câu hát ru em huê tình, tai vẫn nghe hoài, miệng cũng có khi hát, tưởng rằng đã hiểu cháo chan, ai dè biết ra, không hiểu 1 cái gì hết.

Hồi nhỏ, chị tôi ru em, vẫn thường hát câu:

Chim quyên ăn trái ổi tàu

Xứng đôi mẹ gả, ham giầu mà chi

Tôi nghe câu này tới thuộc lòng mà không hề thắc mắc. Dễ quá mà, “ổi tàu” là giống ổi ở bên Tàu chứ còn cái gì nữa! Giống ổi ở bên Tàu, dĩ nhiên, phải lớn hơn, phải ngon hơn ổi bên mình, cũng như con ngựa to lớn thì gọi là ngựa Bắc Thảo, con gà, con vịt to con, được gọi là gà Tàu, vịt Tàu …

Không hề thắc mắc như vậy, cho mãi tới hơn nửa đời người, đọc 1 bài của ông Võ Phiến, mới biết rằng “ổi tàu” ở trong câu hát không phải là giống ổi bên Tàu, mà là 1 loại cây hoang, mọc thành từng lùm từng bụi ở mấy vùng đất gò miền Trung, cây này ở miền Bắc gọi là hoa cứt lợn, còn ở cái xứ “chó ăn đá, gà ăn muối” của tôi thì gọi là bông ngũ sắc. Tôi đã từng hái trái của nó, lớn chỉ bằng hột tiêu, để ăn, đã từng hái những cái bông của nó để hút chất mật ngọt ở cuống bông, mà đâu biết tên của nó là ổi tàu! Mẹ tôi vẫn thường hái bông ổi tàu này, chưng với đường phèn cho anh em tôi uống mỗi khi bị ho.

Có 1 câu hát ru em nữa, mà tôi cũng nghe đi nghe lại hoài:

Trách ai ăn giấy bỏ bìa

Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa

Câu này thì tôi có thắc mắc, giấy thì làm sao mà ăn? “Ăn giấy bỏ bìa” là làm sao? Tại sao hạng người “ăn giấy bỏ bìa” khi thương lại thương vội, khi lìa lại 1 mạch lìa luôn theo kiểu “hạ thủ bất lưu tình”?

Tôi đem những thắc mắc này hỏi nhiều người, kể cả những ông thầy dậy Việt Văn, nhưng không có ai trả lời nghe xuôi tai được.

Cho mãi tới sau khi đổi đời, “giả dại qua ải” (mà chút xíu nữa thành dại thiệt), về ở rẫy, tôi mới được nghe giải thích thỏa đáng câu hát này.

Người dạy tôi là bà Ba Thời. Bà này, cạo đầu, ăn chay trường, tu tại gia, không ăn trầu, nhưng hút thuốc phun khói còn hơn là đầu máy xe lửa. Bà có biệt tài chữa bệnh bằng phương pháp cắt lể rất mát tay. Nhiều người, trong đó có tôi, nhờ bà chữa trị mà lành bịnh được. Đặc biệt bà có 3 con dao để lể, 1 cái bằng vàng, 1 cái bằng bạc, 1 cái bằng đồng, cái nào cũng chỉ lớn bằng cây móc tai. Tùy theo con bịnh nặng nhẹ mà bà dùng con dao nào để lể. Bà, người nẩm thấp, hơi nới về chiều ngang, mấy ngón tay mũm mĩm no tròn như nải chuối cau, nhưng cắt lể cho bịnh nhơn, bà làm coi bộ gọn gàng nhặm lẹ khéo léo lắm. Tôi khoái nhất là cái màn được bà se se mấy sợi tóc, rồi giựt nghe cóc cóc.

Đọc tới đây xin độc giả đừng vội lên án tôi là tuyên truyền đề cao cho những phương pháp chữa bệnh thiếu khoa học. Chuyện thiếu khoa học hay đúng theo khoa học, biết làm sao mà nói cho cùng. Tôi viết ra đây là theo những điều chính tôi đã từng trải qua, theo kiểu “thấy mà tin”, chớ không hề thuyết phục ai phải tin theo mình cả.

Hồi 77, 78 trong nước bị khủng hoảng kinh tế nặng, một trăm thứ bệnh đều chữa bằng xuyên tâm liên, sống ở rẫy, nếu không có những người như bà Ba Thời, bà Tám Thông, có lẽ tôi đã ấm mồ xanh cỏ từ lâu.

Bà Tám Thông cũng chuyên về giác lể như bà Ba Thời, nhưng hành nghề chính thức. Mỗi ngày, bà quẩy gánh, đem đồ nghề ra chợ Phú Mỹ (nằm trên quốc lộ 15, đường Sài Gòn-Vũng Tàu), giác lể, ăn tiền. Bà Ba Thời chỉ cắt có 1 vết nhỏ, rồi nặn ra 1 chút máu. Bà còn dùng bông gòn sạch, tẩm dầu tràm, chặm lên vết thương đàng hoàng. Còn bà Tám Thông sau khi cắt, dùng bầu thủy tinh giác hơi để hút máu. Bà nào làm ăn cũng rất bầy hầy. Bà dùng 1 nùi giẻ rách bươm, lau máu lau vết thương cho bịnh nhơn. Không biết 1 năm bà giặt được mấy lần, nùi giẻ dơ hầy, hôi rình.

Bởi lối chữa bịnh của bà Tám Thông làm mất máu nhiều quá, trong thời buổi ăn khoai mì cầm hơi, 1 giọt máu còn quí hơn vàng và bởi cái lối làm ăn của bà thiếu vệ sinh quá, nên tôi chỉ nhờ bà ra tay có 1 lần. Độ ấy, cứ chiều chiều là tôi cảm thấy ớn lạnh, tay chân bải hoải. Bịnh kéo dài cả tháng không hết. Một người hàng xóm, là thím Sáu Liệt, nói tôi bị trúng nước, nếu không chữa trị cho sớm, để lậm vô phổi, thì chỉ có “bà cứu nị”. Và thím giới thiệu tôi tới bà Tám Thông. Vừa nằm dài, đưa lưng trần cho bà cắt, giác, mà tôi nhờm gớm cái gì đâu. Tôi nhủ thầm là tự hậu, không bao giờ tới bà lần thứ 2. Quả thiệt như vậy, tôi không tới gặp bà lần nào nữa, vì chỉ 1 lần chữa trị đó, bịnh hết hẳn. Mấy chuyện như vậy, biết sao mà nói cho cùng (2).

Cái chuyện cắt lể khiến cho tôi nói sang đàng, xin trở về đề tài “ăn giấy bỏ bìa”.

Bữa ấy, tôi ráng lội qua nhà bà Ba Thời để nhờ bà trị cho cho cái chứng Thiên Đầu Thống, đau đầu có 1 bên. Bà lấy cây kim vàng ra lể. Nói không phải để quảng cáo cho bà, bà chữa bịnh đâu có nhận tiền thù lao, chỉ cứu nhân độ thế mà thôi, vả chăng, bà mất đã 10 năm có lẻ, cát bụi trở về với cát bụi lâu rồi, đâu cần tôi phải quảng cáo, bà cắt lể, giựt tóc nghe cóc cóc cho tôi 1 hồi, bịnh 10 phần nhẹ hết 8, 9. Bà chỉ vô cái võng treo tòng teng ở góc nhà, biểu tôi: “Thằng Tám mày nằm đó, đánh 1 giấc đi, ngủ 1 giấc, mày sẽ hết nhức đầu luôn.”

Nằm trên võng, chưa ngủ được, tình cờ mà tôi học được thế nào là “ăn giấy bỏ bìa”.

Ngồi trên bộ ván ngựa, bà Ba Thời trải rộng tờ giấy quyến, lớn bằng tờ nhật trình khổ lớn. Bà cẩn thận xếp đôi chiều dọc của tờ giấy, bà xếp đôi nữa, rồi lại xếp đôi nữa. Bà dùng dao rọc theo những lằn xếp. Tờ giấy, như vậy, được rọc ra thành tám mảnh, chiều dài vẫn giữ y nguyên. Tự nhiên, bà nói:

- Rọc giấy như vậy kêu bằng ăn giấy. Miếng giấy, tao rọc làm 8 vun, kêu bằng ăn 8, nhiều người hà tiện, rọc thành 16 vun, kêu bằng ăn 16. Nhưng giấy ăn 16, điếu thuốc ngắn ngủn, kéo chưa đủ 3 hơi đã hết. Tao thà chịu tốn giấy, ăn 8, đặng vấn điếu nào đáng điếu nấy, hút mới đã.

Không chờ không đợi mà tôi còn mừng hơn là khi không bắt được vàng thoi bạc nén vì bỗng dưng, bà ngâm nga:

Trách ai ăn giấy bỏ bìa

Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa.

Bà cắt nghĩa liền:

- Thằng Tám mày thấy không? Giấy quyến đâu có bìa, hổng có cái gì đáng mà phải bỏ hết. Vậy mà có những kẻ ăn giấy, bày đặt bỏ trên, bỏ dưới, bỏ tả, bỏ hữu. Những kẻ ăn giấy bỏ bìa này chánh thị là ba cái quân điệu bộ kiểu cách lỏng nhách, mà lại kiêu căng phí phạm bạc hẳn không ai bằng.

Bà ngậm ngùi ngang:

– Tao khổ gần 1 đời cũng vì ba cái quân “ăn giấy bỏ bìa” này đây… bị, hồi đó, tao nghèo quá …

Té ra, giấy ở đây là giấy quyến để vấn thuốc, và ăn giấy là như vậy đó, chớ giấy không lẽ bỏ vô miệng mà ăn được. Và, có nghe bà Ba Thời giải thích như vậy, tôi mới hiểu được tại sao cái kẻ “ăn giấy bỏ bìa” lại “khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa”.

Khi tôi cảm ơn vì đã học được, đã được giải thích tường tận những điều thắc mắc ôm ấp từ lâu, thì bà Ba Thời cười, khoe hàm răng ám khói vàng khè.

- Tao mà dạy cái gì? Chữ nghĩa của tao vừa đủ để ký tên. Đây là tay tao làm, miệng tao nói, cho vui vậy thôi …


Có người sẽ trách rằng tại làm sao mà tôi lại chấp nhận lời giải thích của 1 người phụ nữ quê mùa ít học 1 cách dễ dàng như vậỵ. Trách tôi thì tôi chịu. Thú thật, tôi vẫn còn đem thắc mắc về cái câu “ăn giấy bỏ bìa” ra hỏi nhiều người lắm, có người là nhà ngữ học lừng danh nữa, nhưng không có ai giải nghĩa được hết.

Có 1 lần, đọc trên 1 tờ báo, nơi mục giải đáp thắc mắc, tôi thấy có người cũng thắc mắc về cái câu “ăn giấy bỏ bìa”, hỏi rằng giấy làm sao mà ăn được, người giữ mục giải đáp đã trả lời rằng câu đó sai rồi, phải sửa lại là “trách ai được giấy bỏ bìa” mới đúng.

Đọc tới đó tôi bỗng ngậm ngùi, vì phải ai cũng có cơ duyên gặp được bà Ba Thời như tôi vậy đâu. Bà bây giờ, đã ra người thiên cổ, 1 chữ cũng là thầy, huống hồ bà còn dạy cho tôi nhiều điều khác nữa.

Có lần, bà mời tôi hút thuốc, bà nói thuốc ngon lắm. Thuở đó, chuyện hút thuốc, tôi còn là trong mơ, cứ tưởng thuốc ngon là thuốc nhẹ lâng lâng, như kiểu thuốc vàng sợi ở Lạng Sơn... Nào dè, thuốc của bà, mới rít vô 1 hơi, tôi đã muốn bể phổi, ho sặc sụa. Té ra, thuốc ngon là thuốc nặng, có biết như vậy rồi, mới hiểu được tường tận ý nghĩa câu thuốc ngon nửa điếu”. Trời ơi, thuốc ngon cỡ như thuốc của bà Ba Thời, mà chỉ còn có phân nửa, quến nhựa của nửa điếu thuốc trước thì… ngon kể gì.

Tôi có cơ duyên may mắn được gặp bà Ba Thời và có gặp được bà rồi mới biết mình còn ngu nhiều lắm.

Có nhiều câu thành ngữ, nghe người ta nói, hay đọc trong báo chí, sách vở, riết rồi quen, tôi cũng nói y theo như vậy, không cần biết trúng trật, không cần nghiệm coi nó có hợp lý hay không. Thí dụ như câu “Một kiểng hai quê”. Câu này, người ta vẫn thường nói và tôi vẫn nói theo, để chỉ người đàn ông có 2 vợ...

Một dịp tình cờ, tôi nghe chị Mũ Đỏ Vũ Thị Vui nói khác, chị Vui là 1 phụ nữ, có 1 thời ngang dọc, là 1 sĩ quan nổi tiếng trong binh chủng Nhảy Dù. Chính chị làm quan, chứ không phải làm quan tắt. Chị bày tỏ ý kiến 1 cách nhẹ nhàng, không cần thuyết phục người nghe:

– Phải nói là “Một kiểng hai huê” mới đúng.

“Huê” là “hoa”, vì kiêng tên bà Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng, nên chữ “hoa” phải đọc là “huê”, ở miền Trung, có nơi còn đọc là “ba”, miền Nam thì nói là “bông” (3).

Bữa chị Vui nói đó, có mặt cả nhà thơ Lê Giang Trần. Nhà thơ này có nghĩ gì không, tôi không biết, riêng tôi, nghe xong, tôi giật mình. Té ra, bấy lâu nay mình quen miệng nói theo người ta, trật lất mà mình không biết. 1 chậu kiểng mà trồng 2 loại hoa khác nhau, để chỉ người đàn ông 2 vợ là phải quá rồi.

Từ cái câu “Một kiểng hai huê”, mới hợp với câu ca dao:

“Một bồn một kiểng tuổi xanh

Một chàng, hai thiếp khổ anh nhiều bề”.

Tại sao mà khổ dữ vậy?


Tại vì:

“Một chàng, hai thiếp, anh xử hiếp tôi rồi,

Tối, buồng ai nấy ngủ; gạo, hai nồi nấu riêng.”

Đó, như đã nói, có nhiều câu nhiều chữ, nói riết thành quen, rồi hiểu cũng theo 1 thói quen, không cần tìm tới tận gốc cái nghĩa đích thực của nó.

Hồi nãy, tôi nói tới chữ “ổi tàu”, bây giờ, xin nói tới “thịt kho tàu”.

Hồi trước, chỉ có người miền Nam mới biết món thịt kho tàu. Ăn với dưa giá trong mấy ngày tết. Bây giờ, bất kỳ là Bắc, Trung, Nam, không mấy người là không biết món thịt kho tàu. Kho làm sao, không ướp hành ướp tiêu gì hết, mà vẫn thơm tho? Kho làm sao mà miếng thịt mềm rục nhưng không nát, kho làm sao mà không bỏ nước màu, nước thịt vẫn tươi màu nâu đỏ, trong khe? Mấy điều này, xin hỏi mấy bà nội trợ lành nghề. Tôi chỉ biết về điều tôi học được về “thịt kho tàu”.

Ăn món thịt kho này từ hồi mới mọc 3 cái răng cửa, tới hơn nửa đời người, tôi vẫn cứ đinh ninh món này là món của người Tàu.

Thịt kho tàu là món thịt kho của người Tàu, chắc nhiều người cũng nghĩ như tôi vậỵ.

Nghĩ riết như vậy rồi quen, không hề thắc mắc rằng trong các tiệm ăn do chính người Tàu làm chủ và làm đầu bếp chính, kể cả các tiệm ăn bình dân, không hề có món thịt kho tàu, ghi trong thực đơn. Mà thiệt, gẫm cho cùng, bên Tàu, xứ lạnh, làm gì có cây dừa, để có nước dừa tươi đổ vô nồi thịt kho.

Mãi cho đến khi đọc 1 bài của Ông Bình Nguyên Lộc, viết cho các em thiếu nhi, mới hiểu rằng chữ “tàu”, ở đây, theo nghĩa của người “miền dưới” là “lạt”, như sông Cái Tàu Thượng, sông Cái Tàu Hạ là 2 con sông nước lợ.

Té ra, kho tàu là kho lạt lạt chứ không phải là kho theo kiểu người Tàu!

Cũng nói quen miệng mà không cần tìm hiểu là “cây lẻ bạn”.

Lẻ bạn là loại cây giống như cây thơm, cây dứa, nhưng thấp hơn, nhỏ hơn, cao độ hai tấc, hai tấc rưỡi là cùng. Tàu lá lẻ bạn màu tím than, bông mục ra ở dưới gốc, giống như 2 cái vỏ sò khép lại. Khi bông nở, hai mảnh hé ra, nhụy là những hột trắng tươi.

Ở miền Nam, người ta thường trồng cây lẻ bạn ở những gò mả, ngụ ý sự thương tiếc ngậm ngùi, người sống cũng lẻ bạn, người chết cũng lẻ bạn.

Đó là tất cả những gì mà tôi biết, tôi hiểu về cây lẻ bạn. Tôi chưa 1 lần trồng cây lẻ bạn bên mộ của ai, nhưng tôi thích cái ý nghĩa này.

Nào dè tôi biết, tôi hiểu trật lất.

Đọc sách cụ Vương Hồng Sển mới biết cây này tên của nó không phải là cây “lẻ bạn”, mà là “lão Bạng”, lấy từ câu “lão Bạng sanh châu” (con trai, con sò già, sanh ra ngọc). Sở dĩ cây gọi làm vậy là vì bông của nó giống như 2 vỏ sò úp lại và khi nở bày nhụy trắng tinh bên trong như những hạt minh châu.

Cụ Vương còn cho biết ở vùng núi Ngũ Hành Sơn ở Quảng Nam, cây Lão Bạng mọc làng khang. (4)

Biết thêm một điều gì, đỡ ngu thêm một chút, nhưng trường hợp của cây Lão Bạng này, tôi nghĩ thà là không biết còn hơn. Bấy lâu, tôi vẫn thấy bụi cây màu tím đó, mọc bên cạnh 1 ngôi mộ, là 1 hình ảnh nên thơ, nói lên 1 ý nghĩa thương tiếc ngậm ngùị “Lẻ bạn” bỗng trở thành “Lão Bạng”, hình ảnh nên thơ, chan chứa tình cảm đó, bỗng nhiên biến mất …

Tôi, bây giờ, ai “đem tiêu muối vải lên đầu” rồi, mà muối đã nhiều hơn tiêu, ngồi mà tiếc lại thời gian đã qua, bỏ lỡ nhiều dịp may để mà học. Nhưng, tiếc là tiếc vậy thơi chớ làm sao níu kéo lại được thời gian.


Thế giới càng ngày càng văn minh tấn tới khoa học kỹ thuật tiến triển mau lẹ tới mức theo không kịp, tôi vẫn nuôi tham vọng muốn học nhiều, nhưng ngày giờ có chừng, sức người có hạn, học làm sao cho hết. Bà Ba Thời đã về với cát bụi, các ông Bình Nguyên Lộc, Vương Hồng Sển cũng không còn, nhưng các bạn trẻ tấn lên, cái kiến thức về khoa học kỹ thuật của họ, học biết bao giờ rồi?

Đức Khổng Tử dạy rằng: “Vi nhơn nan” (làm người thì khó). Nội cái chuyện học làm sao để sống cho ra con người, xứng đáng là 1 con người, cũng đã hụt hơi.

Tôi lớn lên trong phong trào Hướng Đạo, Luật phong trào dạy: “Trong sạch từ tư tưởng, lời nói tới việc làm”. Cho tới ngày giờ này, điều luật vẫn làm tôi lao đao, chỉ biết cố giữ câu châm ngôn “gắng sức” của sói con, để cho ngựa đừng trở chứng đạp rào.

Đức Phật là người đi mà không đến. Cái học của tôi cũng vậy, học thầy, học bạn, học sách, học báo, học đường, học chợ, học chỉ để mà học. “Dủ học dủ ngu”.

Ngày xưa, thầy Tử Lộ hỏi Đức Khổng Tử khi nào thì chấm dứt sự học. Vị Vạn thế Sư Biểu đã trả lời rằng:

– Khi huyệt đã đào nhẵn nhụi rồi, đất đã đắp chắc chắn rồi, người đi đưa đã quay chưn lui gót rồi, lúc đó mới hết học.

Và, cái học khó nhứt vẫn là học làm sao để sống cho ra con người.

NGUYỄN ĐỨC LẬP
(Trích từ KỶ YẾU THƯ VIỆN VIỆT NAM 2000)

 

CHÚ THÍCH:

(1) Khi Nhà văn Mai Thảo ngụ ở khu chung cư gần nhà hàng Song Long (Little Saigon Địa Đàng Hạ Giới), buổi sáng thường đi bộ qua khu bên kia đường để uống cà phê. Phải băng qua ngã tư Moran và Bolsa. Ông không bị ticket vì vượt đèn đỏ hay tốc lực nhanh mà là vì đèn đường chưa xanh, đèn bộ hành chưa bật mà ông lửng thửng băng qua đường (vì vắng xe lúc sáng tinh mơ). Cảnh sát biên giấy phạt ngay trước Trung tâm băng nhạc Thanh Lan (của giám đốc Hoa Hậu Nghệ Sĩ Thanh Lan), Nhà văn chỉ cười. Cảnh sát nói đi nói lại gì đó Nhà văn cũng cười và Nhà văn cũng không biết để mà nhận ticket. Ký giả Ngọc Hà và Du Miên thấy vậy, “giải vây”. Sau khi nghe giải thích, viên Cảnh Sát thông cảm. Nhà văn Mai Thảo không thèm học tiếng Mỹ, Ông từng nói với vợ chồng Du Miên rằng Ông chỉ cần biết nói rõ chữ “Cognac” để mua rượu uống mà thôi. “Vậy thì vô bar thì anh nói sao? – “Thì cũng vỏn vẹn Cognac. Lên máy bay cũng thế thôi!”


(2) Mời đọc thêm: Nền Y học, Y tế và Vệ sinh ở Việt Nam tiền bán thế kỷ thứ 20 - Tác giả: NGÔ THỊ QUÝ LINH

(3) Bà Hoàng hậu này, thiệt tình mà ghi: Vì kiêng tên Hoa của bà mà cả dân Lục tỉnh Nam kỳ phải đọc là bông hay ba. Còn xứ hoa quế xanh Thanh Hoa có tên từ thời xa xưa, tới thời bà làm Hoàng Hậu phải thêm dấu sắc và đọc làm “Thanh Hóa” mất cả chữ, mất cả nghĩa đích thực của xứ sản xuất Quế lừng danh Việt Nam.

(4) Cây Lão Bạng như vậy nhưng có một nhơn vật lịch sử thời chống thực dân Pháp có tên là Mai Lão Bạng (tức Già Châu), là bạn đồng chí với nhà ái quốc Sào Nam Phan Bội Châu:

Linh mục Mai Lão Bạng cùng một số tu sĩ, giáo dân Công Giáo đã hưởng ứng phong trào yêu nước như Duy Tân, Đông Du, Việt Nam Quang Phục Hội… Ông có viết tờ văn nhằm cổ động đồng đạo tham gia cách mạng yêu nước.

Có lúc cả Linh mục và Cụ Phan bị Tây bắt nhốt cùng xà lim. Cụ Phan làm bài thơ:

Bơ vơ đất khách bác cùng tôi:

Riêng bác cay chua nếm đủ mùi.

Tính mạng bao phen gần chết hụt

Mày râu ba lượt bị giam rồi!

Trời toan đại dụng nên rèn chí,

Chúa giúp thành công tất có hồi.

Nếu phải đường đời bằng phẳng hết,

Anh hùng hào kiệt có hơn ai.

(Bản dịch của Đào Trinh Nhất)

- Hai câu cuối, có bản dịch là "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, Anh hùng hào kiệt có hơn ai?".

Vào năm 1940, khi nghe tin đồng chí Phan Bội Châu của mình qua đời, Mai Lão Bạng tiễn bằng câu đối:

Đầu bạc đã chia phôi, hai chục thu xưa, hồ hải ghi dấu thâm giao, tôi thẹn không cùng được chết;

 

Lòng son còn chưa lạt, hai mươi thế kỷ, non sông sắp thay màu sắc, ông sao không cố vài năm.”



Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Nhìn lớp bụi vươn trên hàng tủ dọc cửa ra vào thư viện, độc giả có thể "đoán" ra tuổi của những chiếc tủ tự đóng này. Tủ "già" nhưng có nhiều đồ quý còn già hơn nhiều. Đặc biệt là các tủ đựng sách báo cũ, trước 1975 của Việt Nam Cộng Hòa, một vài cuốn vào thời Pháp thuộc. Kệ sách cũng do các thiện nguyện viên (đa số là Hướng Đạo Sinh) đóng tặng. Ở một góc trên cao là bảng hiệu "Thư Viện Việt Nam", là "tác phẩm" bằng tay của Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng thực hiện qua nghệ thuật xử dụng dây dừa (ngón nghề của Hướng Đạo Sinh)... Thư viện của chúng ta quá là dễ thương...
Tên nước ta một thời là “Xích Quỷ”, có người phịa nghĩa là “quỷ đỏ” (cho hợp với quỷ đỏ cộng sản đang cai trị nước ta?); cũng có người bịa ra cho rằng vua nhà Thanh bên Tàu “ban” cho tên nước ta là “Việt Nam” (trong khi bọn Tàu của chúng chưa từng có quốc hiệu mãi cho đến năm 1911, cách mạng Tân Hợi thành công thì nước Tàu mới có tên nước là Trung Hoa Dân Quốc). Nhà văn, nhà giáo Trần Lam Giang cho chúng ta biết rõ ý nghĩa của quốc hiệu mà tổ tiên chúng ta chọn.
Người Việt từ thế kỷ thứ 19 trở về trước thường tin rằng bệnh tật là do giới “vô hình” hoặc “siêu hình” gây ra. Người ta tin rằng bệnh tật sinh ra vì chạm vía, tà ma yêu quái, thần thánh quở phạt, gặp năm sung tháng hạn, động chạm mồ mả, không đúng phong thủy, bị trù ếm, bị bỏ bùa, v.v... Cũng vì nghĩ như thế cho nên các cách chữa bệnh tùy theo trường hợp mà người ta tìm cách trấn áp. Ví dụ trẻ sơ sinh có người dữ vía tới thăm mà khóc không ngừng, người nhà phải đốt vía, dùng lá nón mê hoặc cây chổi cũ vừa đốt vừa đọc câu chú đuổi vía dữ. Người mẹ mới sinh con mà bị băng huyết cũng cho là vì gặp vía dữ. Trường hợp hay thấy là dùng tàn hương nước thải cho người bệnh uống. Những người bị bệnh đi nhờ các ông đồng bà cốt cầu xin thần linh cấp bùa để đeo hoặc cho bùa để người bệnh đốt hòa với nước thải rồi uống. Nếu cho rằng bệnh vì tà ma yêu quái thì người mình lo sửa lễ cúng vàng mã, hương hoa, xôi rượu, hoặc mời thầy trừ tà ma trị quỷ…
Thư Viện Việt Nam đã có dịp giới thiệu đến quý vị nhiều bài biên khảo về lịch sử, văn hóa nhưng lần này, chúng tôi hân hạnh giới thiệu bài biên khảo công phu của tác giả NgôThị Quý Linh về một đề tài hiếm khi được khảo luận kỹ lưỡng và sâu sắc: “Sự quan trọng của Luân Lý trong đời sống xã hội”. Bài viết dài 108 trang với những trích dẫn tư tưởng của các bậc hiền triết Đông Tây kim cổ trên thế giới và của nhiều danh sĩ đất Việt theo thứ tự thời gian. Bài còn có những hình ảnh sinh hoạt hiếm quý của người Việt thời đầu thế kỷ thứ 20, những hình ảnh thân thương của nền giáo dục nhân bản thời thập niên 1950-1970…. Hơn bao giờ hết, vào thời buổi này, dù ở xứ sở nào, xã hội nào chăng nữa, Luân Lý trong đời sống xã hội là một vấn nạn lớn rất cần phải quan tâm. Xin mời quý vị từ tốn cùng lật từng trang đọc…
Hân hạnh giới thiệu Biên khảo “Tên Họ Hai Bà Trưng” của tác giả Đỗ Hoàng Ý. “… Thật đáng quan tâm là đến nay đã gần hai ngàn năm sau thời Hai Bà Trưng, chúng ta vẫn chưa biết được chắc chắn điều nào thực, điều nào hư trong số những điều được ghi chép trong các thần tích, ngọc phả, trong các sử sách xưa về những cuộc khởi nghĩa oai hùng đó. Ngay cả tên họ của Hai Bà đến nay hậu sinh chúng ta vẫn không biết người Việt cổ phát âm như thế nào? Họ của Hai Bà là Lạc, là Trưng, hay là không có họ?... Quý bạn có thể tìm đọc thêm “Khảo Luận Về Cổ Thư Tàu”...
1- Đầu tiên là đại học Cambridge, Hoa Kỳ, vào năm 1986, ghi thuật chi tiết việc kiến trúc Tử Cấm Thành vào thời Minh Thành Tổ, do kiến trúc sư Nguyễn An, người Việt Nam đảm trách. 2- Tháng 9 năm 2008, Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam tại Little Saigon, California, cho xuất bản tác phẩm Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Đông của tác giả Du Miên. Đề tài người Việt Nam vẽ kiểu và xây Tử Cấm Thành Bắc Kinh chiếm ¼ nội dung tác phẩm. 3-Tháng 11 năm 2008, đài truyền hình ZDF Dokukanal (Germany) thực hiện bộ phim Tử Cấm Thành Bắc Kinh : Bản Di Chúc Của Một Bạo Chúa, một lần nữa làm sáng tỏ thêm về tác giả công trình kiến trúc đồ sộ bậc nhất thế giới này : Nguyễn An, một tù binh Việt Nam. Bộ phim do đài truyền hình Đức thực hiện; được phụ đề Việt ngữ vì nội dung của cuốn phim nhằm ca ngợi công trình kiến trúc tuyệt vời của một người Việt Nam, mà người Tàu "Cầm Nhầm" hàng mấy trăm năm qua, nay đã bị thế giới phanh phui...
lovelittlesaigon.org Thư Viện Việt Nam hân hạnh giới thiệu bài biên khảo mới nhất (2023) của tác giả ĐỖ HOÀNG Ý: “Khảo luận tổng quát một số ghi chép trong cổ thư Tàu liên quan đến lịch sử Việt thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa”. Tác giả đã dẫn nhiều cổ sử, bản đồ tổng hợp từ nhiều nguồn, chứng minh những gì sử của nước ta và chính những sử sách xưa nhất của người Tàu cũng đều “ghi lại” sau khi “nghe dân gian lưu truyền” từ mấy trăm năm hay cả ngàn năm sau… Mời quý vị cùng đọc…
Theo thầy Hương Giáo Nguyễn Đức Lập và anh Du Miên kể thì, trước khi nhóm sáng lập truyền “hịch thu gom” sách và đồ quý lập Thơ Dziện, một hôm Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ gọi Du Miên bảo ghé nhà nhận bàn máy đánh chữ. Hỏi thêm thì được biết bàn máy đánh chữ có dấu Việt Nam. “Tôi cho cậu vì cậu còn làm báo.” Bàn máy này theo chân Thiếu tướng Kỳ tị nạn 1975. Ông vẫn giữ trong nhà tuy rằng chưa bao giờ dùng đến. Khi nhà thơ Hoàng Anh Tuấn thấy chiếc máy đánh chữ này, ngỏ ý muốn “mượn” để đánh bài vì anh quen viết bài bằng máy đánh chữ. “Bấy giờ vợ chồng Du Miên- Ngọc Hà xuất bản tờ Trường Sơn, anh Hoàng Anh Tuấn ngày nào cũng có mặt tại tòa soạn và dùng bàn máy chữ này để làm thơ hay viết bài (đầu thập niên 1980). Lúc bấy giờ (anh Lập giữ vai trò Ttk Tòa soạn), ngoài Hoàng Anh Tuấn còn có Lê Tử Hùng, Đinh Hiển (Họa sĩ Hĩm), Đông Duy, Nghi Thụy...
Cho tới bây giờ, theo chỗ tui (CO KHANH) biết, chỉ mỉnh Thơ Dziện Việt Nam ở Lí-tô Sài Gòn có bức tượng bằng đồng này. Xuất xứ của bức tượng, hành trình lưu lạc hay "tị nạn" Việt Cộng của bức tượng khó mà rõ ràng. Người tặng tượng "gốc" đã ra người thiên cổ, người tặng thứ nhì (cho TVVN) vì tôn trọng "nỗi riêng" của anh mình nên quyêt không hé răng. Ban sáng lập Thơ Dziện lại tôn trọng người hảo tâm tặng đồ quý nên cuối cùng SiteAdmin ra lệnh, Co Khanh tui không thể không tuân hành nên đành phải rị mọ tìm tòi ghi ghi chép chép. Nếu quý huynh đài tỷ muội nào biết rõ hơn điển của "cô Ba" hay "tượng đồng Cô Ba" làm ơn cho tui góp ý. Tôi nguyện cúng gà xôi tới tấp, dái lạy tôn dzinh....
Quyển sách 330 trang đúc kết từ những dữ liệu lịch sử với nhiều hình ảnh chi tiết về cộng đồng người Việt ở Little Saigon, Nam California từ năm 1975 mà chính tác giả là nhân chứng trong hơn 48 năm sinh sống tại nơi này. - DU MIÊN, Nhà báo/Đồng tác giả sách: "Một số những người năm 1975 ở trong vùng này đã chết rồi, và chúng tôi đã trải qua nhiều cái khó khăn về sức khoẻ, chưa biết là mình sống và mình chết ngày nào, và sự ra đi của một vài người bạn có công lớn nhất với cái sự hình thành của Little Saigon là mục sư tiến sĩ Nguyễn Xuân Đức của nhà thờ Saint Anselm tin lành, và Đốc sư Phùng Minh Tiến mới vừa mất một năm, hai năm vừa qua, nó thôi thúc chúng tôi là nếu chúng ta không có viết lại thì các em các cháu sau này sẽ làm lạc hay là nó không biết được cái nguồn gốc thật sự của nó." Ông Du Miên là một nhà báo từ trước năm 1975. Ông cũng là một trong bốn thành viên sáng lập ra tờ báo tiếng Việt xuất bản đầu tiên ở Mỹ có tên Hồn Việt, vào tháng 11 năm 1975...
VHV FOUNDATION - THƯ VIỆN VIỆT NAM
VIETNAMESE CULTURAL CENTER

10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843
E-mail: info@lovelittlesaigon.org