BÀI MỚI NHẤT
07 Tháng Mười Một 2025(Xem: 122)
Trong suốt hơn 100 năm nay, người Việt của ba, bốn thế hệ đều quen thuộc với câu ca dao thật mộc mạc, phổ thông đã thấm sâu vào hồn bao người. Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Điểm đặc biệt là hai câu ca dao này không những đã vượt thời gian mà còn vượt cả không gian, đi đến miền nào trên đất Việt đều được người miền ấy uyển chuyển thay đổi đôi ba địa danh để địa phương hóa hai câu nghe thật thỏa nguyện. Từ miền Bắc nghe văng vẳng nơi chốn Hà Nội: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Đến miền Trung trên dòng sông Hương lại nghe rõ câu ca: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. Ấy thế mà vào đến trong Nam cũng chừng đó “gió đưa”, “tiếng chuông”, “canh gà” mà lại biến hóa thành: Gió đưa tàu chuối la đà, Tiếng chuông Xá Lợi, canh gà Thủ Thiêm. (trích từ bài: Thọ Xương hay Thọ Cương -Thái Văn Kiểm, 2001) ...
01 Tháng Tư 2025(Xem: 2032)
Vào lúc 11 giớ sáng Chủ nhựt 30 tháng 3 năm 2025 phòng sinh hoạt của Thư Viện Việt Nam góc đường Westminster và Euclid đã không còn chỗ trống. Trên 250 quan khách và đồng hương đã đến đây - như thông lệ hàng năm - để nhận 1 cuốn sách bằng tiếng Anh có nội dung độc đáo: Viết về lịch sử hình thành Little Saigon. Cuốn sách dày 310 trang, ghi lại diễn tiến từ 1975 đến 2024 tất cả những sinh hoạt liên quan đến sự hình thành của Little Saigon. Tác giả là 2 nhà báo sống tại Little Saigon ngay từ lúc khởi đầu, đã sưu tập tài liệu và nhất là hình ảnh để đưa vào tác phẩm. Trong buổi ra mắt sách, tác giả công phu mời các nhân vật làm business hay sinh hoạt tại Little Saigon từ lúc khởi đầu đền trực tiếp nói chuyện với quan khách...
25 Tháng Ba 2025(Xem: 1952)
Nạn đói năm Ất Dậu 1945 để lại những nỗi đau đớn tột độ cho những người sống sót và ấn tượng kinh hoàng cho những người đã chứng kiến. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại xảy ra một biến cố thảm thương như thế.Hoàn cảnh và những nguyên nhân nào đã đưa đến nạn đói năm Ất Dậu? Mời độc giả tìm đọc trong bài viết này với nhiều chi tiết gây xúc động mạnh mặc dù sự việc đã xảy ra 80 năm trước đây.
12 Tháng Giêng 2025(Xem: 5693)
In the final days of May, 1975, it was a time of book persecution for the people of South Vietnam. As soon as the Communists seized Saigon, they hastily ordered the confiscation of all South Vietnamese books and newspapers, which they labeled as "decadent and reactionary culture."
12 Tháng Hai 2024(Xem: 2574)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
18 Tháng Giêng 2024(Xem: 3670)
Đài VNATV thực hiện 2 videos về buổi lễ tưởng niệm Nhà văn, Nhà báo, Nhà giáo Trần Lam Giang tại Phòng Sinh Hoạt Thư Viện Việt Nam Little Saigon (Vietnamese Cultural Center - VHV Foundation), 10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843. Tổ chức trong nội bộ và một số bạn học cùng thời với người quá cố.
12 Tháng Giêng 2024(Xem: 2415)
Trong cuộc nội chiến, hai kẻ địch văn hóa là : - Văn hóa cổ truyền hay văn hóa Sài Gòn thì mọi người dân Việt ở hải ngoại hay quốc nội đều hay biết vì hiện đang sống với , - Văn hóa XHCN thì ở miền Nam ít người biết đến vì 2 lý do sau : 1) Cuộc sống ngắn ngủi 10 năm (1975-1986) của văn hóa XHCN tại miền Nam, 2) Hầu như không có tác giả nào cả quốc gia lẫn cộng sản viết về văn hóa XHCN và cuộc nội chiến văn hóa Bắc Nam. Đó là lý do chúng tôi dành phần 1 và phần 2 cho văn hóa XHCN và phần 3 cho cuộc nội chiến văn hóa.
12 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 2882)
Tác giả ghi trong phần « Tự Luận về Bản In tại hải ngoại » : « Ba mươi năm chiến tranh (1945-1975), một cuộc chiến mà người Việt hầu như đóng vai « được mướn » để đánh lẫn nhau, là ba mươi năm tàn phá triệt để như thể một cuộc đổi đời. Ba mươi năm chiến tranh đã qua. Hơn mười năm cuồng say chiến thắng kéo theo hận thù, tù đày, cũng đã qua. « Thua » hay « Thắng » thì cả hai đều tỉnh giấc trước điêu tàn của đất nước. Một thời kỳ đại loạn chưa từng thấy trong lịch sử của dân tộc Việt. Đại loan cho đời sống vật chất. Vô cùng quan trọng nữa là đại loạn cho nếp sống tinh thần, nền móng của tổ chức xã hội. Hậu quả là trước mắt chúng ta hình ảnh một xã hội bị phân hóa và băng hoại cực độ, khiến cho đại chúng không có được một niềm tin để sống, để hành động trong tinh thần hướng thượng với ý thức giúp vào phúc lợi lâu dài của dân tộc… »
04 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 1832)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
28 Tháng Mười Một 2023(Xem: 2059)
“Năm Quý Mùi (1943) là năm trăng mờ gió thảm, tiếng chiến tranh inh ỏi khắp hoàn cầu, toàn xứ Đông Dương bị quân Nhật Bản tràn vào, họa chiến tranh mỗi ngày một lan rộng. Dân Việt Nam bị đói kém đau khổ đủ mọi đường, lại căm tức về nỗi nước nhà suy nhược phải bị đè nén dưới cuộc bảo hộ trong sáu bẩy mươi năm, cho nên ai cũng muốn nhân cơ hội ấy mà gây lại nền độc lập đã mong mỏi từ bao lâu. Tôi là một người nước Việt Nam, lẽ nào lòng tôi lại không rung động theo với dịp rung động của những người ái quốc trong nước? Nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, lòng người ly tán, nhiều người lại muốn lợi dụng cái tiếng ái quốc để làm cái mối tư lợi cho mình, vì vậy mà tôi chán nản không dự vào đảng phái nào cả, mà cũng không hành động về phương diện chính trị. Ngoài những lúc làm những công việc hàng ngày phải làm, khi rỗi rãi gặp những bạn thân, nói đến chuyện thiên hạ sự và việc nuớc nhà, thì tôi cũng nói chuyện phiếm và mong cho nước nhà chóng được giải phóng…”

TÊN NƯỚC TA XƯA KIA LÀ “XÍCH QUỶ” CÓ PHẢI LÀ “QUỶ ĐỎ” KHÔNG?

05 Tháng Mười Một 20231:53 CH(Xem: 8561)

TÊN NƯỚC TA XƯA KIA LÀ “XÍCH QUỶ”

CÓ PHẢI LÀ “QUỶ ĐỎ” KHÔNG?


TRẦN LAM GIANG


ANH GIANG 1
Nhà văn, Nhà giáo, Ký giả TRẦN LAM GIANG trong một sinh hoạt tại Thư Viện Việt Nam Little Saigon


Vài hàng về

Nhà văn TRẦN LAM GIANG
(1940-2023)

 

 

Nhà văn Trần Lam Giang sinh năm 1940 tại Vinh (Nghệ An). Học chữ Nho tại nhà.

 

Học trình:

 

- Học sinh các trường: Tiểu học Ngô Sĩ Liên (Hà Nội), Trung học Chu Văn An (Hà Nội), Trung học Bảo Long (Đà Lạt), Trung Học Chu Văn An (Sài Gòn).

 

- Sinh viên nhiệm ý Triết, Đại học Văn Khoa Viện Đại Học Sài Gòn. Tốt nghiệp Cử nhân Giáo khoa Triết Tây.

 

- Nguyên Tổng Thư Ký báo Vùng Lên của Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn.

 

- Nguyên Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút báo Vì Nước của Tổng Hội Sinh Viên Viện Đại Học Sài Gòn và Tổng Hội Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt.

 

Nghề nghiệp:

 

- Giáo chức, dạy Triết và Việt văn. Giám đốc kiêm Hiệu trưởng trường trung học Trí Đức, Sài Gòn (sang lại của Hội Ái Hữu Cựu Giáo Sư Chu Văn An).

 

- Ký giả, đoàn viên Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam, cùng thân bằng đồng tâm chí mở thông tấn xã Tin Hỏa Tốc.

 

- Nguyên Tham mưu trưởng Võ Trang Tuyên Truyền gồm 7.500 bộ đội Việt Cộng hồi chánh. Khi trận giặc Mậu Thân 1968 tạm yên, từ nhiệm, tình nguyện nhập ngũ khóa 1/1968 Thủ Đức.

 

- Giải ngũ (1970). Trở về đời sống dân sự, hành nghề giáo chức và ký giả.

 

Sau 30 tháng 4 năm 1975:


Giặc Cộng cưỡng chiếm miền Nam, Anh Trần Lam Giang cùng gia đình sang Mỹ tị nạn chính trị. Ở đây Anh làm các nghề: Cán sự Xã hội (Social Worker), tư vấn gia đình (Family Counselor), thợ điện tử, thợ sơn.

 

Ngoài việc làm vì sinh kế gia đình, Anh sinh hoạt nhiệt thành trên lãnh vực sử luận, biên khảo văn hóa, văn học nghệ thuật.

 

Cộng tác với các báo: Xác Định, Dân Tộc, Phụ Nữ Việt, Văn Uyển, Khởi Hành.

 

Chủ trương biên tập các báo: Saigon News, Trường Sơn, Bách Khoa, Người, tạp chí Thời Báo, nguyệt san Người Việt Tự Do.

 

Chủ nhiệm báo Đất Đứng.

 

Thành lập hội Phụ Huynh Học Sinh và Giáo Chức tại Santa Clara (1979). Hội hoạt động tích cực và điều hòa đến nay.

 

Cùng thân bằng đồng chí hướng thành lập Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam, Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam, với sinh hoạt cụ thể là Thư Viện Việt Nam (Nhân Ái Foundation, Vietnamese Cultural Center, VHV Foundation), trụ sở chính tại Little Saigon, quận Cam, California, Hoa Kỳ.

 

Tác phẩm:

 

- Kể chuyện “Cổ Tích Việt Nam” trọn bộ 3 cuốn hơn 1500 trang, ấn hành15 ngàn cuốn tặng các Trung Tâm Việt ngữ. Đã được Giáo sư Tôn Thất Diên dịch sang Anh ngữ.

 

- Dịch và chú thích “Bách Việt Tiên Hiền Chí”, tác giả Sử gia Âu Đại Nhậm thời nhà Minh bên Tàu. Bộ sử này bị người Tàu dấu nhẹn trên 500 năm, các em sinh viên tại Hoa kỳ tìm được sách tại Thư Viện, được Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam (tại California) cử người bỏ công qua tận Thượng Hải (Hoa lục Cộng Sản) và Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc) để so chánh bản và cho phát hành bản dịch tiếng Việt kèm nguyên bản gốc bằng chữ Nho. Đã tái bản 1 lần.

 

- Hồ Xuân Hương: Tiên Thơ Bụi Đời.

 

(DU MIÊN)




tlg bvthc 1
Nhà văn Trần Lam Giang trong buổi ra mắt Bách Việt Tiên Hiền Chí tại Little Saigon, California



ANH GIANG 3
Đông đảo thân hữu và độc giả sắp hàng chờ dịch giả Trần Lam Giang ký tên vào bản dịch
cuốn cồ sử về các bậc tiên hiền người Việt mà người Tàu dấu nhẹm suốt 500 năm.



ANH GIANG 4
Nhà văn, nhà giáo Trần Lam Giang trao tặng bộ Cổ Tích Việt Nam gồm 3 cuốn 1, 2, 3
cho Nhà giáo Nguyễn Văn Khoa đại diện các trường dạy Việt ngữ




Theo dân gian truyền tụng cũng như theo sử sách mà nay còn giữ được qua những thăng trầm của lịch sử, vua đầu tiên của nước ta là Kinh Dương vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.


Vua thứ hai là Lạc Long quân, quốc hiệu không thay đổi.


Vua thứ ba là Hùng vương thứ nhất, quốc hiệu là Văn Lang. Quốc hiệu này được giữ cho đến hết triều đại Hùng vương (Hùng vương thứ 18).


1- KINH DƯƠNG VƯƠNG VỚI QUỐC HIỆU XÍCH QUỶ


Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của sử gia Ngô Sỹ Liên (không sai khác với dân gian truyền tụng):


“Vua húy là Lộc Tục, dòng dõi họ Thần Nông. Cháu ba đời đế Viêm, họ Thần Nông là đế Nghi, sinh đế Minh rồi đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh, lấy Vụ tiên nữ mà sinh ra vua. Vua thánh trí thông minh, đế Minh rất kỳ vọng, muốn truyền ngôi cho. Vua không dám vâng mệnh, cố nhường cho anh. Vì thế, đế Minh mới lập đế Nghi làm con kế vị, cai trị phương Bắc, và phong vua làm Kinh Dương vương, cai trị phương Nam, tên nước là Xích Quỷ.”


Kinh Dương vương nghĩa là vua châu Kinh và châu Dương.


Sách Thượng Thư, bộ sử cổ nhất của Trung Hoa, được đức Khổng Tử biên soạn lại, cho biết:


“Vùng cao nguyên các dãy núi Kinh và núi Hành cùng các vùng đất bên bờ thượng lưu sông Giang (Trường Giang hay Dương Tử - "Long river", "Yangzi", "Changjiang"), sông Hà, sông Hán là châu Kinh. Duyên hải, châu thổ sông Hoài, sông Tứ và châu thổ hạ lưu sông Giang là châu Dương.”


Như vậy, châu thổ dọc sông Trường Giang (Dương Tử) và châu thổ các phụ lưu của Trường Giang cùng miền duyên hải, nơi các sông ấy đổ ra biển là lãnh thổ do Kinh Dương vương cai trị.


XÍCH QUỶ  :


- Xích  là đỏ, mầu của lửa. Hơi lửa ấm áp, biểu tượng cho lòng nhân ấm áp. Lại có câu: “Nam phương hỏa đức thịnh 南 方 火 徳 盛 nghĩa là người phương Nam giầu lòng nhân (nghĩa đen là phương Nam đức lửa thịnh).


Về đức nhân của người phương Nam, đức Khổng Tử có giảng cho thày Tử Lộ như sau:

第 十 章

 子 路 問 強. 子 曰: 南 方 之 強 與? 北 方 之 強 與? 抑 而 強 與? 寞 柔 以 教 ,不 報 無 道 :南 方 之 強 也. 君 子 居 之. 衽 金 革, 死 而 不 厭: 北 方 之 強 也 而 強 者 居 之. 故 君 子 和 而 不 流. 強 哉 矯. 中 立 而 不 倚. 強 哉 矯. 國 有 道, 不 變 塞 焉. 強 哉 矯. 國 無 道 ,至 死 不 變. 強 哉 矯 .


Phiên âm:

Tử lộ vấn cường. Tử viết: «Nam phương chi cường dư ? Bắc phương chi cường dư? Ức nhi cường dư ? Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo: Nam phương chi cường dã. Quân tử cư chi. Nhẫn kim cách, tử nhi bất yếm: Bắc phương chi cường dã cường giả cư chi. Cố quân tử hòa nhi bất lưu. Cường tai kiểu ! Trung lập nhi bất ỷ. Cường tai kiểu ! Quốc hữu đạo, bất biến tắc yên. Cường tai kiểu ! Quốc vô đạo, chí tử bất biến. Cường tai kiểu! »

Nghĩa câu phiên âm chữ đỏ:

“Rộng rãi hiền hòa dạy dỗ người, không trả thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của người phương Nam. Người quân tử chủ trương như vậy. Mặc giáp cầm gươm đến chết cũng không chán, đó là sức mạnh của người phương Bắc. Người ưa bạo lực chủ trương cách này”


- QUỶ  : Sao Quỷ, một ngôi trong nhị thập bát tú. Ở sách Luận Ngữ, thiên Vi Chính Đệ Nhị, Khổng Tử có dạy các đệ tử rằng:

子曰:非其鬼而祭之,諂也。


Phiên âm:


“Tử viết: Phi kỳ quỷ nhi tế chi, siểm giã.”


Dịch nghĩa:


“Không phải tổ tiên mình mà cúng tế là nịnh hót vậy.”


Theo nghĩa xưa, 人 神 曰 鬼 nhân thần viết quỷ: linh hồn con người gọi là quỷ; thiên thần viết thần 天 神  曰 神; địa thần viết kỳ 地 神 曰 示,thần trên trời là thần, thần đất là kỳ. (Chữ kỳ 示 là thần đất còn được viết là 祇 )


Như vậy, chữ quỷ còn có nghĩa là linh hồn: giá trị tinh thần sáng suốt như sao và bất diệt.


Từ ý nghĩa của chữ “xích” và chữ “quỷ” như đã trình bày ở trên, ta hiểu được rằng: Kinh Dương vương đặt tên quốc hiệu là Xích Quỷ nhằm mục đích xác định nước ta là nước của những người có lòng nhân, người đối đãi với người bằng tấm lòng thương yêu. Con người không phải chỉ là thân xác hữu hình hữu hoại như muôn loài cây cỏ. Ngoài thân xác, con người còn giá trị tâm linh sáng như sao trời và linh hồn vĩnh cửu.


2- HÙNG VƯƠNG VỚI QUỐC HIỆU VĂN LANG:


Học giả tây dương H. Maspero (dựa vào mấy cuốn ngoại thư, không phải chính sử như Thủy Kinh Chú, Nam Việt Chí, Giao Châu Ngoại Ký của Trung Hoa) viết rằng phải gọi là Lạc vương 雒 王 mới đúng, gọi Hùng vương 雄 王  là sai. Chẳng qua chữ Lạc 雒  và chữ Hùng 雄  rất giống nhau nên nhà viết sử Việt Nam viết lầm.


Các nhà viết sử xưa của nước ta là Lê Văn Hưu, Ngô Sỹ Liên, những nhà Nho học uyên bác, sao lại có thể viết lầm như H. Maspero tưởng. Chẳng qua nhà học giả tây dương này đọc được vài cuốn ngoại thư không có giá trị bao nhiêu về lịch sử Việt, đã vội tự tin là có kiến thức xác đáng về sử nước ta. Ông chưa tố nguyên (tìm nguồn gốc) chữ 雒  (lạc). Sách Tiền Hán Địa Lý Chí – Khang Hy Tự Điển cũng có trích dẫn như là một tài liệu tố nguyên – có ghi: “Nhà Hán 漢  thuộc hành hỏa, kỵ nước. Do vậy, vua Quang Vũ nhà Đông Hán, đổi chữ 洛 (có bộ “thủy” là nước ở bên trái chữ này) ra chữ 雒 . Vua Quang Vũ nhà Hán phục hưng Hán triều năm 23 dương lịch. Như vậy chữ 雒  nếu có sớm nhất cũng chỉ có từ năm 23. 18 vua Hùng đều ở ngôi trước năm này rất xa, thời các ngài chưa có chữ 雒 (lạc) này.

Vua Hùng vương thứ nhất lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang. Các Hùng vương đều giữ quốc hiệu này.


- VĂN LANG 文郎  NGHĨA LÀ GÌ?  


Ở thế kỷ 20 có những nhà tân học hấp thụ văn hóa tây dương, có thiện chí về nguồn, nhưng kiến thức về cựu học chưa thấu đáo nên vấp phải những sai lầm khi bàn về quốc sử. Chẳng hạn như hiểu một cách nông cạn ý nghĩa Xích Quỷ, theo nghĩa đen đời nay là Quỷ Đỏ rồi phủ nhận quốc hiệu này. Lại có người suy đoán một cách phóng đãng rằng “xích” là “trần truồng”, có lẽ xưa ta sống man rợ hung hãn, không biết mặc quần áo, thân thể lõa lồ, nên người Tàu gọi ta là Xích Quỷ, tức là loại quỷ lõa thể.

Về Văn Lang, có những nhà viết sử không tìm về nguồn gốc nghĩa xưa của chữ, đã giảng rằng “Lang” là “chàng”, “người đàn ông”; “Văn” là “có học”, “có trí thức”. Vậy (theo họ) Văn Lang là người đàn ông có văn học.

Lại có người giảng: đọc Văn Lang là sai, phải đọc là Văn Làng mới đúng.

Những vị này đã quan niệm quốc hiệu quá hẹp hòi.

Nước không thể biểu tượng bằng một người đàn ông văn học. Nước gồm rất nhiều người đàn ông văn học, cùng rất nhiều bậc nữ lưu và tất cả quốc dân, vì cảnh ngộ, nhiều người không có văn học.

Nước gồm nhiều tỉnh, phủ, huyện, làng, xóm. Tên nước sao lại chỉ thu hẹp vào một làng (văn làng)? Dù là làng văn! Càng chướng hơn khi bảo quốc hiệu là Văn Làng, một danh từ Hán Nôm lẫn lộn, lại sai ngữ pháp Việt Nam.

- VĂN 文 theo nghĩa xưa, là đạo trời, là chân lý. Sách Luận Ngữ, thiên “Tử Hãn đệ Cửu” có ghi lời Khổng Tử khi bị người đất Khuông vây khốn, bảo học trò:

子畏於匡,曰:“文王既没,文不在兹乎?天之将丧斯文也,后死者不得与於斯文也;天之未丧斯文也,匡人其如予何?”


Phiên âm:

Tử úy ư Khuông, viết: Văn Vương ký một, văn bất tại tư hồ? Thiên chi tương táng tư văn giã. Thiên chi vị táng tư văn giã, Khuông nhân kỳ như dư hà?” “Văn vương ký một, văn bất tại tư hồ - Thiên chi tương táng tư văn giã. Thiên chi vị táng tư văn giã, Khuông nhân kỳ như dư hà?”

Dịch nghĩa:


Khổng Tử bị người đất Khuông vây khốn, bảo các đệ tử rằng: “Văn vương đã mất, đạo trời bây giờ không gửi ở ta hay sao? Nếu lòng trời muốn bỏ đạo thì kẻ chết sau Văn vương là ta không được tham dự việc thể hiện đạo trời. Nếu lòng trời chưa nỡ bỏ đạo thì đất Khuông không làm gì được ta.”


- LANG 郎 : chữ lang 郎 gồm chữ lương 良 là lương thiện bên bộ ấp 邑 là vùng đất có biên giới phân minh, tức lãnh thổ (về sau, chữ ấp 邑  dùng để chỉ vùng đất nhỏ như thôn ấp).

Lương và Ấp hợp thành chữ Lang, nghĩa là lãnh thổ của những người lương thiện, cùng nhau thể hiện sứ mạng trời trao phó cho con người, gọi là thiên lương 天良  .


Nước Văn Lang 文郎 nước của những người dìu dắt nhau sống đời lương thiện, chỉ bảo nhau làm sứ mạng thiên lương, thuận với đạo trời, lấy nhân tính là đức nhân làm lẽ sống.

 

PHẦN PHỤ CHÚ:


ĐỀN HÙNG: Lăng các vua Hùng, xưa đều ở trong thành Văn Lang (lấy tên nước đặt tên thành ở chốn đế đô là Châu Phong). Qua nhiều thăng trầm biến thiên của lịch sử, đến đời Trần, thành Văn Lang và đền thờ Lý Ông Trọng – tức Lý Thân, danh nhân đời Hùng vương thứ 18 – vẫn tồn tại. Sau gặp cơn quốc nạn giặc Minh xâm lược, với chủ trương xóa bỏ gốc cũ cùng văn hóa truyền thống của nòi giống Việt, giặc đã đốt phá thành quách, đền đài, bi chú (bia có khắc chữ ghi chú những điều liên quan đến lịch sử và văn học), đốt sách ta, tịch thu sách quý đem về Tàu. Trong họa ấy, thành Văn Lang, lăng mộ Hùng vương, đền thờ các danh nhân của dân tộc bị phá hủy rất nhiều. Đời Lê và đời Nguyễn trùng tu.

Trong khi đối đáp văn thơ với sứ giả nhà Minh, Phạm Sư Mạnh có viết:

玉 珥 寒 光 侵 廣 野,

傘 圓 霽 色 照 昇 龍。

文 郎 城 古 山 重 疊,

翁 仲 祠 深 雲 淡 濃。
 

Phiên âm:

Ngọc Nhị hàn quang xâm quảng dã,

Tản Viên tễ sắc chiếu Thăng Long.

Văn Lang thành cổ sơn trùng điệp,

Ông Trọng từ thâm vân đạm nồng.


Dịch nghĩa:


Sông Nhí quý báu như ngọc, làm tươi sáng mát mẻ đồng đất bao la

Khi trời quang đãng, sắc núi Tản Viên chiếu soi đến Thăng Long

Thành cổ Văn Lang núi non trùng điệp

Đền thờ Ông Trọng thâm nghiêm, sắc mây khi nhạt khi đậm.

 

Phạm Sư Mạnh là một danh Nho, học trò của Chu Văn An. Đỗ Thái học sinh (tức Tiến sĩ) triều vua Trần Minh Tông (1314-1329).

 

QUỐC HIỆU VIỆT NAM CÓ TỪ BAO GIỜ?


Hồ Tông Thốc, danh Nho đời Trần, đậu Trạng Nguyên dưới triều Trần Nghệ Tông (1370-1372), có viết tác phẩm Việt Nam Thế Chí.              


Nguyễn Trãi, khai quốc công thần của Lê Thái Tổ (Lê Lợi – 1428-1433). Ông là bậc anh hùng, là nhà tư tưởng, là nhà thơ, nhà văn. Trong sách Dư Địa Chí do ông là tác giả có ghi: “Vua đầu tiên là Kinh Dương vương, sinh ra có thánh đức, được phong tại Việt Nam, là tổ của Bách Việt.” (Tiên quân Kinh Dương vương, sinh hữu thánh đức, thụ phong Việt Nam, vi Bách Việt tổ)


Lý Tử Tấn, danh Nho đời Lê, cùng thời với Nguyễn Trãi, thông luận tác phẩm Dư Địa Chí, có viết: “Tương truyền vua đầu tiên của nước Việt ta là Kinh Dương vương, dòng dõi đế Viêm. Cha ngài là đế Minh đi tuần đến Nam Hải gặp nàng Vụ tiên nữ, lấy làm vợ, sinh con đặt tên là Lộc Tục. Lộc Tục thần thái đoan chính, có thánh đức, vua cha rất yêu quý, muốn truyền ngôi. Lộc Tục hết sức từ chối, cố nhường cho anh mình ngôi báu. Đế Minh bèn phong Lộc Tục cai trị Việt Nam, tức là Kinh Dương vương.”

(Ngã Việt chi tiên, tương truyền thủy kinh viết Kinh Dương vương, Viêm đế chi duệ. Vương phụ đế Minh tuần thú chí Nam Hải, ngộ Vụ tiên nữ, nạp chi. Sinh tử Lộc Tục, thần thái đoan chính, hữu thánh đức. Đế ái chi, dục lập vi tự. Vương cố nhượng kỳ huynh. Đế Minh nãi phong chi Việt Nam, thị vi Kinh Dương vương).


TRẦN LAM GIANG

(KỶ YẾU THƯ VIỆN VIỆT NAM, LITTLE SAIGON, 2001)




Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Văn và Sử là hai bộ môn liên hệ mật thiết, đặc biệt thơ văn ái quốc và lịch sử không thể tách rời. Muốn có cái nhìn chính xác về giá trị thơ văn tiền bán thế kỷ 20, phải để lòng vào giai đoạn lịch sử đó. Lịch sử hơn bốn nghìn năm bảo chủng và sinh tồn trên giải đất quê hương, trải qua vô vàn khó khăn, đau thương, gian khổ, đủ nói lên truyền thống yêu nước thương nòi của dòng giống Việt...
lovelittlesaigon.org đã đưa MƯA GIÓ SÔNG TƯƠNG với bản PDF của Quán Ven Đường. Trong tủ sách tồn trữ tại Thư Viện Việt Nam có ghi "lý lịch" của tập thơ này như sau: "- Mưa Gió Sông Tương, thơ Tương Phố trong thời gian từ 1915 đến 1949, in năm 1960, bản chính, rất hiếm, do chính hiền muội của thi sĩ Tương Phố là cụ bà Phạm Hoàng Kim tặng. và tập thơ Giọt Lệ Thu có chữ ký của chính nữ sĩ Tương Phố, cũng được hiền muội của thi sĩ là cụ bà Phạm Hoàng Kim chụp phó bản, tặng. Ngày 6 tháng 3 năm 2024, bạn Nguyễn Tín (ông xã Tara Thu) bay từ New York qua để bắt tay lắp đặt máy quét (Scan) và tập thơ Mưa Gió Sông Tương được bạn Nguyễn Tín chăm sóc đưa lên có màu nền từ nguyên bản. Kể từ nay Thư Viện chúng ta sẽ theo sự chỉ dẫn của bạn Nguyễn Tín để đưa các cuốn sách quý lên bằng chính bản PDF của Thư Viện Việt Nam...
Ông Trần Văn Thành lại là đại đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An, thuộc phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông đã được Đức Phật Thầy trao cho một cây cờ, một cái ấn và một tấm áo màu dà, để dùng trong công cuộc đền nghĩa núi sông. Ông đã kết hôn với bà Nguyễn Thị Thạnh, người ở rạch Sa Nhiên, Sa Đéc. Theo người cố cựu nói lại, vóc người bà rất nhỏ bé, nhưng võ nghệ cao cường, chữ nghĩa cũng rất rành. Vì ông được gọi là Đức Cố Quản, bà cũng được gọi là Đức Bà Cố Quản. Sau khi quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, các quan chức của nhà Nguyễn đã theo lịnh triều đình rút về Bình Thuận và Huế để chờ nhận chức vụ khác. Ông ở lại miền Nam, lo tổ chức đánh Pháp, giành lại đất nước.
Tôi cầu cho quý thầy, quý anh, chị làm được. Nếu làm không xong thì các em, các cháu tiếp tục. Nhưng tôi tin rằng thành quả của thư viện nay đã nhìn thấy rồi. Khi cháu Tánh yêu cầu tôi viết cảm nghĩ của tôi về Thư viện, tôi hỏi ra nay thư viện đã có năm sáu chục ngàn cuốn sách, hàng ngàn cổ vật, sưu tầm, kỷ vật quý giá... Đây là tài sản chung của mọi người Việt không phải bây giờ mà còn lưu lại mai sau. Ngoài tài sản cũ sưu tập ấy, thư viện còn viết, in sách, biên khảo giá trị... Quả thật quý vị làm được những việc ý nghĩa quá chừng. Tôi tự nguyện là một thành phần của thư viện, mãi mãi....
Trọn bộ Tạp chí PHỔ THÔNG của Nhà báo Nguyễn Vỹ từ số 1 ngày 1 tháng 11 năm 1958, đến số 270 ngày 1 tháng 7 năm 1971 được lưu trữ tại Thư viện Đại học Cornell Hoa Kỳ. Ông Võ Phi Hùng đã bỏ công chụp lại từng trang của ngần ấy tờ báo để cống hiến cho chúng ta cùng có dịp đọc một tạp chí có giá trị được mọi người công nhận. Nhân đây, lovelittlesaigon.org giới thiệu và vinh danh các ân nhân có công lớn trong việc phổ biến tạp chí Phổ Thông... LƯU Ý: KHÔNG ĐỌC ĐƯỢC BẰNG CELL, thành thật cáo lỗi.
"Trăm sự đều nhờ tiền. Nhìn về tương lai phát triển ư? Nhờ các anh và đồng bào các giới tiếp tay." Nhà báo Du Miên tâm sự tiếp: "Chúng tôi đa? đi được những bước chập chửng, chúng tôi dự trù qua hết năm thứ ba, thế nào cũng phải tìm một địa điểm rộng hơn và dưới lầu..." Tất cả chúng ta rồi sẽ ra đi (theo ngưoi bạn Trầm Tử Thiêng), nhiều lúc tôi tự hỏi mình có còn để lại gì không? Câu trả lời mà tôi tìm được khi thăm thư viện VN là: "Mình để lại cho các con, em, cháu trẻ vốn liếng văn hóa của cha ông mình". Sinh hoạt thư viện Việt Nam đáp ứng được nhu cầu đó. Nếu quý bạn đọc được những dòng tâm tình này mà muốn để lại gì cho mai sau, hãy mang đến Thư Viện VN 1 cuốn sách Việt Ngữ. Cám ơn quý bạn.
Rồng Tiên chỉ là biểu tượng. Lạc Long Quân có cha mẹ là người, hiển nhiên ngài là một người. Người ấy tài ba đức độ vượt bực, không ai có thể sánh cùng, ví như rồng trong đám mày râu. Bà Âu Cơ con vua Đế Lai, cũng hiển nhiên là người, một người nhan sắc tuyệt trần, nết na phẩm hạnh như tiên trong đám quần thoa. Rồng Tiên trong gốc nguồn lịch sử dân tộc Việt không phải là vật tổ (totem) như cái nhìn sai lạc của một số sử gia Tây phương phát xuất từ những dân tộc có vật tổ.
... Thư Viện sắp bước qua năm thứ hai mươi lăm. Anh Bùi Đắc Danh đã cùng anh chị em trong nhóm đã kiên trì không biết mệt. Nhưng nhiều người đã không thể cưỡng được với định luật tự nhiên. Nhiều anh đã đi thật xa. Vài anh đã xuống dần sức lực, đi đứng chậm lại. Vài anh cần tới cây gậy ba-ton hay phải vịn bàn mới đứng lên được. Người già người yếu. Thư Viện cũng già theo. Bài viết này của anh Bùi Đắc Danh đã được đăng trong Kỷ yếu Thư Viện Việt Nam năm 2000, sau một năm Thư Viện ra đời. Giờ đây trích đăng lại, Thư Viện đang chuẩn bị bước sang năm thứ 25 – một phần tư thế kỷ.... Mời bạn đọc những gì anh Bùi Đắc Danh ghi lúc ấy.
Để quý bạn biết thêm về quá trình gom góp sách và các loại đồ quý tại Thư Viện Việt Nam, lovelittlesaigon.org tuần tự trích đăng (phải đánh máy lại tốn rất nhiều giờ) những ghi chép của anh chị em sáng lập cùng các thiện nguyện viên và thân hữu (mà nay nhiều người đã bỏ cuộc chơi). Ngoài 2 cuốn Kỷ yếu 2000 và 2001 có nhiều bài và hình ảnh, các bản tin sinh hoạt Thư Viện cũng có những ghi chép, bài viết giá trị. Bài này trích ra từ Kỷ yếu 2000. Bài này không kèm hình. Những đồ quý tại TVVN sẽ được giới thiệu kèm hình ảnh trong một bài khác.
Dù thực dân phương Bắc, với mưu đồ đồng hóa, đã nghìn năm ra sức xóa bỏ cội nguồn dân tộc Việt bằng cách đốt phá đền đài bi chú, đốt sách sử, tịch thu sách quý đem về nước họ. Đối phó với hành vi nham hiểm ấy, người dân Việt một mặt tồn trữ văn hóa vào văn chương truyền khẩu, một mặt luân lưu ngọc phả tiền nhân một cách kín đáo, can đảm, trường kỳ trong dân gian, sao chép chia nhau gìn vàng giữ ngọc. Giặc càng đốt phá miếu đình, người Việt càng tùy cơ xây dựng lại, nơi nguy nga, nơi nhỏ bé, nhưng nơi nào cũng được tôn kính, sùng bái, thành khẩn khói nhang để tựa lưng vào quá khứ, đi về với lịch sử. Do đó không vong bản.
VHV FOUNDATION - THƯ VIỆN VIỆT NAM
VIETNAMESE CULTURAL CENTER

10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843
E-mail: info@lovelittlesaigon.org