Ơi người viễn khách,
Đã có lần nào bạn đặt chân lên đất Sài Gòn?
Đối với dân Nam Kỳ Lục Tỉnh, Sài Gòn luôn luôn là một địa danh được ghi nhớ, được nhắc nhở đời đời.
Người Tây phương gọi Sài Gòn là “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Người dân quê miền Nam, cho dù là ở miền Đông đất đỏ hay miền Tây nước mặn nước phèn, đều coi Sài Gòn là một chốn phồn hoa đô hội, với đèn màu “ngọn xanh ngọn đỏ”.
Về phương diện lịch sử, hồi thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Sài Gòn đã từng được Lễ Tài Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (sử sách chép là Nguyễn Hữu Kính để tránh trùng tên với Đông Cung Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh, con của Thế Tổ Cao Hoàng Đế Gia Long) chọn làm nơi đóng tổng hành dinh khi ông lãnh quân bảo hộ Cao Miên và bảo vệ những người dân Việt di dân sinh sống tại miền Nam.
Sài Gòn là nơi tạm trú đầu tiên của những quan binh di thần của nhà Minh, tránh nạn Mãn Thanh, được Hiền vương Nguyễn Phúc Tần chứa chấp và cho vào Nam sinh sống. Trước khi tỏa ra an cư lạc nghiệp ở vùng Cù Lao Phố, Trấn Biên (Biên Hòa) hay Định Tường, Long Hồ Dinh (Vĩnh Long), các di thần nhà Minh, Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình, Hoàng Tiến v.v… đã dừng chân nơi ven sông Sài Gòn, lập nên xóm Đề Ngạn (đề ngạn là con đê bao bờ sông). Xóm này không mấy chốc mà trở thành địa điểm buôn bán phồn thịnh tấp nập.
(Theo học giả Vương Hồng Sển, danh từ “Sài Gòn” có gốc tích từ hai chữ “Đề Ngạn” nầy đây. Theo ông, “Đề Ngạn” phát âm theo giọng Tàu là “Thầy Nguồn”. Hai chữ “Thầy Nguồn” nói tới nói lui thét thành ra “Sài Gòn”).
Trong cuộc nội chiến giữa Nguyễn vương Phúc Ánh và nhà Nguyễn Tây Sơn, Sài Gòn nhiều lần trở thành nơi chiến địa đẫm máu kinh hoàng. Nhà Tây Sơn vĩnh viễn mất Sài Gòn khi Nguyễn vương chiếm lại thành này lần thứ ba.
Thời đàng cựu, tức là thời cai trị của nhà Nguyễn, Sài Gòn là nơi đóng đại dinh Tổng Trấn đầu tiên là Kinh Môn Quận công Nguyễn Văn Nhân, tục gọi là Quan lớn Sen. Một vị Tổng Trấn khác là Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức, đã thất lộc khi đang tại chức. Vị Tổng Trấn nổi tiếng nhứt là Tả quân Lê Văn Duyệt (tước Duyệt Quận công).
Trong cuộc nổi dậy chống triều đình, Lê Văn Khôi (con nuôi của Tả quân Lê Văn Duyệt) giữ chức Chánh Vệ Úy, cùng với các thuộc hạ như ông Hoành, ông Trấm, anh em họ Võ (Vĩnh Tiền, Vĩnh Tái, Vĩnh Lộc), Lê Văn Tha, Lê Văn Bội v.v… chiếm lấy thành Sài Gòn (đã bị triều đình đổi tên là thành Phiên An), và giữ thành này suốt ba năm.
Tới thời Pháp thuộc, Sài Gòn được chọn làm nơi đặt dinh Thống Soái, nơi làm việc của viên Thống Đốc Nam Kỳ.
Kể từ khi hiệp định Genève chia đôi đất nước, Sài Gòn trở thành thủ đô của nước Việt Nam Cộng Hòa.
Sau ngày sụp đổ của miền Nam, Sài Gòn bị đổi tên, chỉ còn là một thành phố. Tuy nhiên đây là thành phố phồn thịnh nhứt về kinh tế trên toàn quốc.
Bạn thân,
Không phải tôi muốn nói với bạn về lịch sử của Sài Gòn. Những điều đơn giản trên đây chỉ nhằm mục đích giúp cho bạn biết một cách khái quát về một nơi chốn đã lưu lại nhiều câu hò điệu hát xưa cũng như nay.
Nói tới Sài Gòn, điều đầu tiên, dân Nam Kỳ Lục Tỉnh không nói tới dinh Thống Soái (sau nầy gọi là Dinh Độc Lập) mà là nói tới chợ Sài Gòn. Ngay như ở hải ngoại, nhiều tờ báo đã dùng hình ảnh của chợ Sài Gòn như là một biểu tượng của “Hòn Ngọc Viễn Đông”.
Nếu gọi đúng tên, chợ nầy phải là chợ Bến Thành. Nhiều người sẽ thắc mắc rằng “bến” ở đâu, “thành” ở đâu, chợ nằm giữa khu thương mại đông đúc, tại sao lại mang tên làm vậy?
Cái tên Bến Thành đã có từ lâu lắm rồi, từ thời đàng cựu, khi chợ còn nằm ở vị thế trước “bến” sau “thành”.
Ở Sài Gòn, trên đường Hàm Nghi, gần mé sông, có một nơi được gọi là Chợ Cũ. Đó là nơi tọa lạc của chợ Sài Gòn thuở trước. Nên nhớ là cả con đường Hàm Nghi ngày xưa là một con kinh và là một cái bến cho ghe thuyền đậu lại chuyển hàng lên chợ. Thành phố Sài Gòn ngày xưa tám cửa, từng mang tên là Qui Thành, Phụng Thành, rồi Phiên An Thành, tọa lạc gần sông. Trước bến, sau thành để mang tên Bến Thành là như vậy.
Sau, dưới thời Pháp thuộc, một tay thương buôn khét tiếng, gốc người Hoa, là Hứa Bổn Hòa, tục gọi là Chú Hỏa, tên Tây là Hui Bon Hoa, đã xuất tiền ra cất một cái chợ mới để tặng cho nhà nước bảo hộ. Cái chợ đó, chính là chợ Sài Gòn bây giờ.
Không phải tốt lành gì mà chú Hỏa xuất tiền cất nguyên một cái chợ bề thế bực nhứt Nam Kỳ để tặng cho nhà nước. Đây là một cách đầu tư khôn ngoan. Cất chợ, chú Hỏa còn cất bao nhiêu dãy phố lầu chung quanh chợ. Chú vận động cho nhà nước dời chợ Bến Thành về chợ mới. Bao nhiêu căn phố lầu chung quanh chợ do chú làm chủ đều biến thành vàng.
Một câu hát vào thời phải dời chợ đã phác họa phần nào hình ảnh của chợ Bến Thành mới:
“Chợ Bến Thành mới,
kẻ lui người tới,
Xem tứ diện rất xinh
Thấy em tốt dáng tốt hình,
Chẳng hay em có chốn duyên tình hay chưa?”
Một câu hát khác cho biết rằng những con đường bao chung quanh chợ Sài Gòn đều được cẩn bằng đá hoa cương, chớ không phải tráng nhựa như ngày nay:
“Chợ Sài Gòn cẩn đá,
Chợ Rạch Giá cẩn xi-mon
Giã từ em ở lại vuông tròn,
Anh về xứ sở, không còn ra vô”
Sự dời đổi của chợ Bến Thành, đối với người hoài cổ, nhứt là đối với những người yêu nước, không phải mang thuần túy là sự dời một cái chợ, mà là sự dời đổi của lòng người giữa tân trào và cựu trào. Bởi vậy mới có một câu hát, mượn lời một cô gái nhắn gởi người tình:
“Chợ Bến Thành dời đổi,
Người sao khỏi hợp tan.
Xa gần giữ nghĩa tào khang,
Chớ tham nơi quờn quới, phụ phàng bạn xưa.”
Lời nhắn nhủ của cô gái đã được người con trai đáp lại:
“Sông Sài Gòn, sông bao nhiêu nước?
Chợ Bến Thành, kẻ trược người thanh.
Mấy ai cho được như anh,
Dù ai xao xuyến, anh vẫn tín thành với thơ.”
Vốn đã từ lâu, Sài Gòn đã là nơi tưng bừng náo nhiệt, rực rỡ ánh đèn màu:
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Em biểu anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ
Các cô gái quê không phải thắc mắc khi các anh trai làng có dịp lên Sài Gòn:
Xứ nào vui cho bằng xứ Sài Gòn,
Người đi như hội, anh còn nhớ em?
Bởi vì Sài Gòn nhộn nhịp lôi cuốn như vậy nên các cô gái quê không khỏi háo hức, muốn rút chưn ra khỏi bùn lầy đồng ruộng, muối mặn nước phèn, để lên chốn phồn hoa đô hội, sống một cuộc đời thảnh thơi.
Biết được tâm lý này của các cô gái quê, nhiều tay thanh niên Sài Gòn lên tiếng dụ dỗ:
Dõi dõi theo anh
Về nơi châu thành
Coi nam thanh nữ tú
Ở chi cái đất nầy vượn hú chim kêu.
Nhiều chàng thanh niên còn đem cái đời sống an nhàn thảnh thơi, gạo chợ nước máy ra để gợi lên cái lòng háo hức của các cô gái quê:
Gạo Ba Thắc trắng như bông bưởi
Nước phông-tênh tiền rưỡi một đôi
Sài Gòn vui lắm em ôi,
Lấy chồng về đó một đời sướng thân.
Lời dụ dỗ nghe thiệt đã tai. Nhưng, hỡi ôi, ở đời, sự giả, sự thiệt rất là khó phân cho tỏ tường. Nhiều cô gái quê mơ cuộc sống Sài Gòn, nghe lời đường mật dụ dỗ của đám sở khanh, một đời sướng thân đâu chẳng thấy, lại bị bán cho mấy mụ tú bà, cuộc đời nhơ bẩn lấm lem.
Các cô gái háo hức đi theo ánh đèn màu, không khỏi làm cho các anh trai làng than thân trách phận:
Thành thị chỗ nào cũng xí xô xí xào các chú
Em ăn cơm bảy phủ em dạo đủ khắp nơi
Bán buôn một vốn ba bốn đồng lời
Chê anh dân ruộng, chưn mốc cời quanh năm
Mặc cho những chàng trai làng than thân trách phận, các cô gái quê vẫn không từ bỏ giấc mộng chen chưn lên Sài Gòn. Bởi vì trai Sài Gòn thanh lịch quá mà, miệng lưỡi của họ dẻo như kẹo kéo, ngọt như đường Hiệp Hòa:
Cúc mọc dưới sông, bêu bằng cúc thủy,
Chợ Sai Gòn xa, chợ Mỹ hổng có xa
Gởi thơ thăm hết cả nhà,
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em.
Miệng lưỡi như vậy bảo sao các cô không chiều không lụy:
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ không xa
Anh đi ngang, phải ghé vô nhà
Nghèo em, em chịu, làm gà đãi anh.
Sài Gòn vốn là nơi tụ tập “tứ chiếng giang hồ”.
Về hai chữ “tứ chiếng”, có người giải nghĩa trên báo, cho 2 chữ này có nguồn gốc từ hai chữ “tứ trấn”. Người ta còn giải nghĩa tứ trấn là bốn trấn bao quanh thủ đô Hà Nội, là Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam và Hà Đông (thời Trịnh Nguyễn phân tranh).
Thật ra, đối với miền Nam hai chữ “tứ chiếng” có nguồn gốc từ “tứ chánh” thời đàng cựu. “Tứ chánh” có nghĩa là “làm cho ngay”.
Số là thời Tả quân Lê Văn Duyệt (chánh tướng Duyệt) ngồi trấn thủ Gia định, Long Vân hầu Trương Tấn Bửu làm phó (phó tướng Luông). Hai ông có cho tụ tập dân dân lưu linh lưu địa, sống không có sổ bộ, đưa họ vào cuộc sống hợp pháp. Làm như vậy, gọi là “tứ chánh”. Hai ông cho lập “tứ chánh điếm” cho những người dân bất hợp pháp nầy tạm trú để làm giấy tờ, sau đó, đưa họ đi khẩn hoang lập làng, gọi là “Tứ chánh thôn”. Họ không dám nói chữ “Chánh” vì kiêng cử danh gọi ông “Chánh tướng” (Lê Văn Duyệt), bởi vậy “tứ chánh” nói trại thành “tứ chiếng”.
Đã gọi là nơi “giang hồ tứ chiếng” thì đôi khi đòn phép giang hồ tung ra không kịp đỡ. Nạn nhân đôi khi là những cô gái nhẹ dạ:
Sài Gòn mũi đỏ, Gia Định xúp-lê
Giã hiền thê ở lại lấy chồng
Thoàn anh ra cửa như rồng lên mây
Cái thằng bạt tình lang dụ dỗ con gái người ta, rồi cao bay xa chạy mà mừng như “rồng lên mây” thì thiệt là hết biết. Câu này nhắc lại hồi thời Tây đã qua, mũi ghe ở Sài Gòn bao giờ cũng sơn màu đỏ (Sài Gòn mũi đỏ), đò máy ở Sài Gòn, Gia Định đã dùng còi điện để báo hiệu, chớ không còn đánh chuông leng keng (Gia Định xúp-lê).
Nhiều cô gái than dài vì lầm theo miệng lưỡi của bợm sở khanh:
Sông Sài Gòn, cầu Bình Lợi
Tui tưởng mình chồng, tui vợ
Tui chờ đợi hết hơi
Ai dè đàng điếm nói chơi qua đường!
Đôi khi oan gia ngộ oan gia, chàng đã quất ngựa truy phong, nhưng tình cờ gặp lại, bị nàng níu áo hỏi:
Đất Sài Gòn nam thanh nữ tú
Cột cờ thủ ngữ cao rất là cao
Vì thương anh, em vàng vỏ má đào
Tìm anh khắp chốn nhưng nào thấy anh.
Chàng làm ra vẻ mặt chay mày đá, trả lời liền:
Trái cau nho nhỏ, cái vỏ xanh xanh
Anh gặp em giữa chợ Bến Thành
Bầy con em đông đúc, anh phải đành vậy thôi.
Đã sống thì ai cũng vậy, càng trải qua những trắc trở lọc lừa, càng có nhiều kinh nghiệm. Miệng lưỡi của các chàng trai vẫn ngọt ngào:
Chợ Bến Thành đèn xanh đèn đỏ
Anh nhìn cho tỏ, thấy rõ đèn màu
Lấy em anh đâu kể sang giàu
Rau dưa, mắm muối nơi nào hơn em?
Nhưng, các cô gái đã không còn nhẹ dạ dễ tin nữa. Họ biết rõ lòng dạ của những kẻ “bãi buôi lỗ miệng”. Họ trả lời thẳng thét:
Trầu Sài Gòn ăn chơi nhả bã
Thuốc xì gà hút đã lại phà hơi
Anh thấy em giàu muốn dựa mà chơi
Chớ đâu phải chỉ dốc chỗ nơi vợ chồng!
Nhiều cô gái quê, sau khi đã hiểu rõ những sự thật ở đàng sau những lời dụ dỗ, sau khi đã trải qua những thực tế phủ phàng, đã tỉnh ngộ, quay về với cuộc đời đồng ruộng, tuy khổ cực, nhưng không phải xô bồ chen lấn, nhiều khi nhục nhã trăm đường:
Rạng mai hai ngã phân chia
Sài Gòn anh ở, em dìa Cà Mau
* * *
Ôi, người viễn khách,
Sài Gòn khi xưa vốn là nơi yên lành. Thời đô hộ của Tây, Sài Gòn biến thành nơi đèn màu “ngọn xanh ngọn đỏ”. Chánh sách cai trị của thực dân, dùng sự trác táng trụy lạc để ru ngủ dân Sài Gòn, biến Sài Gòn thành nơi chốn ăn chơi. Những tay chơi khét tiếng Nam Kỳ như cô Ba Trà, cô Tư Nhị, cô Ba Pho, Bạch Công Tử (Phước George), Hắc Công Tử (Trần Trinh Qui) đều đổ xô về Sài Gòn, ngập chìm đời sống trong ánh đèn màu.
Nhưng, Sài Gòn vẫn là nơi tụ hội của những người yêu nước không bị chánh sách của Tây làm cho lạc hướng. Những Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Trạch, Hồ Văn Ngà, Phan Văn Hùm, Nguyễn Văn Sâm, Dương Văn Giáo v.v… đã dùng chính những tinh hoa tự do dân chủ của nền văn minh Tây phương để đánh Tây. Sài Gòn đã nhiều lần nổi dậy, khí thế bừng bừng. Chỉ tiếc rằng cuộc nổi dậy này đã bị Cộng Sản phá nát vì họ muốn độc quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến.
Sài Gòn có mặt tốt, có mặt xấu như tất cả các thành phố lấy thương mại bán buôn, phát triển kinh tế làm chính. Nhưng, dù gì đi nữa, hai chữ “Sài Gòn” vẫn vĩnh viễn ở trong tim của mọi người.
NGÔ PHỤNG ANH
ĐỌC THÊM:
DỦ HỌC DỦ NGU - NGUYỄN ĐỨC LẬP






















