BÀI MỚI NHẤT
07 Tháng Mười Một 2025(Xem: 122)
Trong suốt hơn 100 năm nay, người Việt của ba, bốn thế hệ đều quen thuộc với câu ca dao thật mộc mạc, phổ thông đã thấm sâu vào hồn bao người. Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Điểm đặc biệt là hai câu ca dao này không những đã vượt thời gian mà còn vượt cả không gian, đi đến miền nào trên đất Việt đều được người miền ấy uyển chuyển thay đổi đôi ba địa danh để địa phương hóa hai câu nghe thật thỏa nguyện. Từ miền Bắc nghe văng vẳng nơi chốn Hà Nội: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Đến miền Trung trên dòng sông Hương lại nghe rõ câu ca: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. Ấy thế mà vào đến trong Nam cũng chừng đó “gió đưa”, “tiếng chuông”, “canh gà” mà lại biến hóa thành: Gió đưa tàu chuối la đà, Tiếng chuông Xá Lợi, canh gà Thủ Thiêm. (trích từ bài: Thọ Xương hay Thọ Cương -Thái Văn Kiểm, 2001) ...
01 Tháng Tư 2025(Xem: 2030)
Vào lúc 11 giớ sáng Chủ nhựt 30 tháng 3 năm 2025 phòng sinh hoạt của Thư Viện Việt Nam góc đường Westminster và Euclid đã không còn chỗ trống. Trên 250 quan khách và đồng hương đã đến đây - như thông lệ hàng năm - để nhận 1 cuốn sách bằng tiếng Anh có nội dung độc đáo: Viết về lịch sử hình thành Little Saigon. Cuốn sách dày 310 trang, ghi lại diễn tiến từ 1975 đến 2024 tất cả những sinh hoạt liên quan đến sự hình thành của Little Saigon. Tác giả là 2 nhà báo sống tại Little Saigon ngay từ lúc khởi đầu, đã sưu tập tài liệu và nhất là hình ảnh để đưa vào tác phẩm. Trong buổi ra mắt sách, tác giả công phu mời các nhân vật làm business hay sinh hoạt tại Little Saigon từ lúc khởi đầu đền trực tiếp nói chuyện với quan khách...
25 Tháng Ba 2025(Xem: 1951)
Nạn đói năm Ất Dậu 1945 để lại những nỗi đau đớn tột độ cho những người sống sót và ấn tượng kinh hoàng cho những người đã chứng kiến. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại xảy ra một biến cố thảm thương như thế.Hoàn cảnh và những nguyên nhân nào đã đưa đến nạn đói năm Ất Dậu? Mời độc giả tìm đọc trong bài viết này với nhiều chi tiết gây xúc động mạnh mặc dù sự việc đã xảy ra 80 năm trước đây.
12 Tháng Giêng 2025(Xem: 5686)
In the final days of May, 1975, it was a time of book persecution for the people of South Vietnam. As soon as the Communists seized Saigon, they hastily ordered the confiscation of all South Vietnamese books and newspapers, which they labeled as "decadent and reactionary culture."
12 Tháng Hai 2024(Xem: 2574)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
18 Tháng Giêng 2024(Xem: 3669)
Đài VNATV thực hiện 2 videos về buổi lễ tưởng niệm Nhà văn, Nhà báo, Nhà giáo Trần Lam Giang tại Phòng Sinh Hoạt Thư Viện Việt Nam Little Saigon (Vietnamese Cultural Center - VHV Foundation), 10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843. Tổ chức trong nội bộ và một số bạn học cùng thời với người quá cố.
12 Tháng Giêng 2024(Xem: 2415)
Trong cuộc nội chiến, hai kẻ địch văn hóa là : - Văn hóa cổ truyền hay văn hóa Sài Gòn thì mọi người dân Việt ở hải ngoại hay quốc nội đều hay biết vì hiện đang sống với , - Văn hóa XHCN thì ở miền Nam ít người biết đến vì 2 lý do sau : 1) Cuộc sống ngắn ngủi 10 năm (1975-1986) của văn hóa XHCN tại miền Nam, 2) Hầu như không có tác giả nào cả quốc gia lẫn cộng sản viết về văn hóa XHCN và cuộc nội chiến văn hóa Bắc Nam. Đó là lý do chúng tôi dành phần 1 và phần 2 cho văn hóa XHCN và phần 3 cho cuộc nội chiến văn hóa.
12 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 2881)
Tác giả ghi trong phần « Tự Luận về Bản In tại hải ngoại » : « Ba mươi năm chiến tranh (1945-1975), một cuộc chiến mà người Việt hầu như đóng vai « được mướn » để đánh lẫn nhau, là ba mươi năm tàn phá triệt để như thể một cuộc đổi đời. Ba mươi năm chiến tranh đã qua. Hơn mười năm cuồng say chiến thắng kéo theo hận thù, tù đày, cũng đã qua. « Thua » hay « Thắng » thì cả hai đều tỉnh giấc trước điêu tàn của đất nước. Một thời kỳ đại loạn chưa từng thấy trong lịch sử của dân tộc Việt. Đại loan cho đời sống vật chất. Vô cùng quan trọng nữa là đại loạn cho nếp sống tinh thần, nền móng của tổ chức xã hội. Hậu quả là trước mắt chúng ta hình ảnh một xã hội bị phân hóa và băng hoại cực độ, khiến cho đại chúng không có được một niềm tin để sống, để hành động trong tinh thần hướng thượng với ý thức giúp vào phúc lợi lâu dài của dân tộc… »
04 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 1832)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
28 Tháng Mười Một 2023(Xem: 2059)
“Năm Quý Mùi (1943) là năm trăng mờ gió thảm, tiếng chiến tranh inh ỏi khắp hoàn cầu, toàn xứ Đông Dương bị quân Nhật Bản tràn vào, họa chiến tranh mỗi ngày một lan rộng. Dân Việt Nam bị đói kém đau khổ đủ mọi đường, lại căm tức về nỗi nước nhà suy nhược phải bị đè nén dưới cuộc bảo hộ trong sáu bẩy mươi năm, cho nên ai cũng muốn nhân cơ hội ấy mà gây lại nền độc lập đã mong mỏi từ bao lâu. Tôi là một người nước Việt Nam, lẽ nào lòng tôi lại không rung động theo với dịp rung động của những người ái quốc trong nước? Nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, lòng người ly tán, nhiều người lại muốn lợi dụng cái tiếng ái quốc để làm cái mối tư lợi cho mình, vì vậy mà tôi chán nản không dự vào đảng phái nào cả, mà cũng không hành động về phương diện chính trị. Ngoài những lúc làm những công việc hàng ngày phải làm, khi rỗi rãi gặp những bạn thân, nói đến chuyện thiên hạ sự và việc nuớc nhà, thì tôi cũng nói chuyện phiếm và mong cho nước nhà chóng được giải phóng…”

ĐẤT SÀI GÒN NAM THANH NỮ TÚ

16 Tháng Mười Một 20235:41 CH(Xem: 6837)
ANH LẬP SAIGON
Sài Gòn
(tranh Trương Bửu Giám, Little Saigon)


ĐẤT SÀI GÒN NAM THANH NỮ TÚ
NGÔ PHỤNG ANH
(Bút hiệu khác của Nhà văn NGUYỄN ĐỨC LẬP)
(Trích từ KỶ YẾU THƯ VIỆN VIỆT NAM, LITTLE SAIGON, 2000)

 


Ơi người viễn khách,

Đã có lần nào bạn đặt chân lên đất Sài Gòn?

Đối với dân Nam Kỳ Lục Tỉnh, Sài Gòn luôn luôn là một địa danh được ghi nhớ, được nhắc nhở đời đời.

Người Tây phương gọi Sài Gòn là “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Người dân quê miền Nam, cho dù là ở miền Đông đất đỏ hay miền Tây nước mặn nước phèn, đều coi Sài Gòn là một chốn phồn hoa đô hội, với đèn màu “ngọn xanh ngọn đỏ”.

Về phương diện lịch sử, hồi thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Sài Gòn đã từng được Lễ Tài Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (sử sách chép là Nguyễn Hữu Kính để tránh trùng tên với Đông Cung Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh, con của Thế Tổ Cao Hoàng Đế Gia Long) chọn làm nơi đóng tổng hành dinh khi ông lãnh quân bảo hộ Cao Miên và bảo vệ những người dân Việt di dân sinh sống tại miền Nam.

Sài Gòn là nơi tạm trú đầu tiên của những quan binh di thần của nhà Minh, tránh nạn Mãn Thanh, được Hiền vương Nguyễn Phúc Tần chứa chấp và cho vào Nam sinh sống. Trước khi tỏa ra an cư lạc nghiệp ở vùng Cù Lao Phố, Trấn Biên (Biên Hòa) hay Định Tường, Long Hồ Dinh (Vĩnh Long), các di thần nhà Minh, Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình, Hoàng Tiến v.v… đã dừng chân nơi ven sông Sài Gòn, lập nên xóm Đề Ngạn (đề ngạn là con đê bao bờ sông). Xóm này không mấy chốc mà trở thành địa điểm buôn bán phồn thịnh tấp nập.

(Theo học giả Vương Hồng Sển, danh từ “Sài Gòn” có gốc tích từ hai chữ “Đề Ngạn” nầy đây. Theo ông, “Đề Ngạn” phát âm theo giọng Tàu là “Thầy Nguồn”. Hai chữ “Thầy Nguồn” nói tới nói lui thét thành ra “Sài Gòn”).

Trong cuộc nội chiến giữa Nguyễn vương Phúc Ánh và nhà Nguyễn Tây Sơn, Sài Gòn nhiều lần trở thành nơi chiến địa đẫm máu kinh hoàng. Nhà Tây Sơn vĩnh viễn mất Sài Gòn khi Nguyễn vương chiếm lại thành này lần thứ ba.

Thời đàng cựu, tức là thời cai trị của nhà Nguyễn, Sài Gòn là nơi đóng đại dinh Tổng Trấn đầu tiên là Kinh Môn Quận công Nguyễn Văn Nhân, tục gọi là Quan lớn Sen. Một vị Tổng Trấn khác là Kiến Xương Quận công Nguyễn Huỳnh Đức, đã thất lộc khi đang tại chức. Vị Tổng Trấn nổi tiếng nhứt là Tả quân Lê Văn Duyệt (tước Duyệt Quận công).

Trong cuộc nổi dậy chống triều đình, Lê Văn Khôi (con nuôi của Tả quân Lê Văn Duyệt) giữ chức Chánh Vệ Úy, cùng với các thuộc hạ như ông Hoành, ông Trấm, anh em họ Võ (Vĩnh Tiền, Vĩnh Tái, Vĩnh Lộc), Lê Văn Tha, Lê Văn Bội v.v… chiếm lấy thành Sài Gòn (đã bị triều đình đổi tên là thành Phiên An), và giữ thành này suốt ba năm.

Tới thời Pháp thuộc, Sài Gòn được chọn làm nơi đặt dinh Thống Soái, nơi làm việc của viên Thống Đốc Nam Kỳ.

Kể từ khi hiệp định Genève chia đôi đất nước, Sài Gòn trở thành thủ đô của nước Việt Nam Cộng Hòa.

Sau ngày sụp đổ của miền Nam, Sài Gòn bị đổi tên, chỉ còn là một thành phố. Tuy nhiên đây là thành phố phồn thịnh nhứt về kinh tế trên toàn quốc.

Bạn thân,

Không phải tôi muốn nói với bạn về lịch sử của Sài Gòn. Những điều đơn giản trên đây chỉ nhằm mục đích giúp cho bạn biết một cách khái quát về một nơi chốn đã lưu lại nhiều câu hò điệu hát xưa cũng như nay.

Nói tới Sài Gòn, điều đầu tiên, dân Nam Kỳ Lục Tỉnh không nói tới dinh Thống Soái (sau nầy gọi là Dinh Độc Lập) mà là nói tới chợ Sài Gòn. Ngay như ở hải ngoại, nhiều tờ báo đã dùng hình ảnh của chợ Sài Gòn như là một biểu tượng của “Hòn Ngọc Viễn Đông”.

Nếu gọi đúng tên, chợ nầy phải là chợ Bến Thành. Nhiều người sẽ thắc mắc rằng “bến” ở đâu, “thành” ở đâu, chợ nằm giữa khu thương mại đông đúc, tại sao lại mang tên làm vậy?

Cái tên Bến Thành đã có từ lâu lắm rồi, từ thời đàng cựu, khi chợ còn nằm ở vị thế trước “bến” sau “thành”.

Ở Sài Gòn, trên đường Hàm Nghi, gần mé sông, có một nơi được gọi là Chợ Cũ. Đó là nơi tọa lạc của chợ Sài Gòn thuở trước. Nên nhớ là cả con đường Hàm Nghi ngày xưa là một con kinh và là một cái bến cho ghe thuyền đậu lại chuyển hàng lên chợ. Thành phố Sài Gòn ngày xưa tám cửa, từng mang tên là Qui Thành, Phụng Thành, rồi Phiên An Thành, tọa lạc gần sông. Trước bến, sau thành để mang tên Bến Thành là như vậy.

Sau, dưới thời Pháp thuộc, một tay thương buôn khét tiếng, gốc người Hoa, là Hứa Bổn Hòa, tục gọi là Chú Hỏa, tên Tây là Hui Bon Hoa, đã xuất tiền ra cất một cái chợ mới để tặng cho nhà nước bảo hộ. Cái chợ đó, chính là chợ Sài Gòn bây giờ.

Không phải tốt lành gì mà chú Hỏa xuất tiền cất nguyên một cái chợ bề thế bực nhứt Nam Kỳ để tặng cho nhà nước. Đây là một cách đầu tư khôn ngoan. Cất chợ, chú Hỏa còn cất bao nhiêu dãy phố lầu chung quanh chợ. Chú vận động cho nhà nước dời chợ Bến Thành về chợ mới. Bao nhiêu căn phố lầu chung quanh chợ do chú làm chủ đều biến thành vàng.

Một câu hát vào thời phải dời chợ đã phác họa phần nào hình ảnh của chợ Bến Thành mới:

“Chợ Bến Thành mới,

kẻ lui người tới,

Xem tứ diện rất xinh

Thấy em tốt dáng tốt hình,

Chẳng hay em có chốn duyên tình hay chưa?”

Một câu hát khác cho biết rằng những con đường bao chung quanh chợ Sài Gòn đều được cẩn bằng đá hoa cương, chớ không phải tráng nhựa như ngày nay:

“Chợ Sài Gòn cẩn đá,

Chợ Rạch Giá cẩn xi-mon

Giã từ em ở lại vuông tròn,

Anh về xứ sở, không còn ra vô”

Sự dời đổi của chợ Bến Thành, đối với người hoài cổ, nhứt là đối với những người yêu nước, không phải mang thuần túy là sự dời một cái chợ, mà là sự dời đổi của lòng người giữa tân trào và cựu trào. Bởi vậy mới có một câu hát, mượn lời một cô gái nhắn gởi người tình:

“Chợ Bến Thành dời đổi,

Người sao khỏi hợp tan.

Xa gần giữ nghĩa tào khang,

Chớ tham nơi quờn quới, phụ phàng bạn xưa.”

Lời nhắn nhủ của cô gái đã được người con trai đáp lại:

“Sông Sài Gòn, sông bao nhiêu nước?

Chợ Bến Thành, kẻ trược người thanh.

Mấy ai cho được như anh,

Dù ai xao xuyến, anh vẫn tín thành với thơ.”

Vốn đã từ lâu, Sài Gòn đã là nơi tưng bừng náo nhiệt, rực rỡ ánh đèn màu:

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ

Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu

Em biểu anh về học lấy chữ nhu

Chín trăng em đợi, mười thu em chờ

Các cô gái quê không phải thắc mắc khi các anh trai làng có dịp lên Sài Gòn:

Xứ nào vui cho bằng xứ Sài Gòn,

Người đi như hội, anh còn nhớ em?

Bởi vì Sài Gòn nhộn nhịp lôi cuốn như vậy nên các cô gái quê không khỏi háo hức, muốn rút chưn ra khỏi bùn lầy đồng ruộng, muối mặn nước phèn, để lên chốn phồn hoa đô hội, sống một cuộc đời thảnh thơi.

Biết được tâm lý này của các cô gái quê, nhiều tay thanh niên Sài Gòn lên tiếng dụ dỗ:

Dõi dõi theo anh

Về nơi châu thành

Coi nam thanh nữ tú

Ở chi cái đất nầy vượn hú chim kêu.

Nhiều chàng thanh niên còn đem cái đời sống an nhàn thảnh thơi, gạo chợ nước máy ra để gợi lên cái lòng háo hức của các cô gái quê:

Gạo Ba Thắc trắng như bông bưởi

Nước phông-tênh tiền rưỡi một đôi

Sài Gòn vui lắm em ôi,

Lấy chồng về đó một đời sướng thân.

Lời dụ dỗ nghe thiệt đã tai. Nhưng, hỡi ôi, ở đời, sự giả, sự thiệt rất là khó phân cho tỏ tường. Nhiều cô gái quê mơ cuộc sống Sài Gòn, nghe lời đường mật dụ dỗ của đám sở khanh, một đời sướng thân đâu chẳng thấy, lại bị bán cho mấy mụ tú bà, cuộc đời nhơ bẩn lấm lem.

Các cô gái háo hức đi theo ánh đèn màu, không khỏi làm cho các anh trai làng than thân trách phận:

Thành thị chỗ nào cũng xí xô xí xào các chú

Em ăn cơm bảy phủ em dạo đủ khắp nơi

Bán buôn một vốn ba bốn đồng lời

Chê anh dân ruộng, chưn mốc cời quanh năm

Mặc cho những chàng trai làng than thân trách phận, các cô gái quê vẫn không từ bỏ giấc mộng chen chưn lên Sài Gòn. Bởi vì trai Sài Gòn thanh lịch quá mà, miệng lưỡi của họ dẻo như kẹo kéo, ngọt như đường Hiệp Hòa:

Cúc mọc dưới sông, bêu bằng cúc thủy,

Chợ Sai Gòn xa, chợ Mỹ hổng có xa

Gởi thơ thăm hết cả nhà,

Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em.

Miệng lưỡi như vậy bảo sao các cô không chiều không lụy:

Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ không xa

Anh đi ngang, phải ghé vô nhà

Nghèo em, em chịu, làm gà đãi anh.

Sài Gòn vốn là nơi tụ tập “tứ chiếng giang hồ”.

Về hai chữ “tứ chiếng”, có người giải nghĩa trên báo, cho 2 chữ này có nguồn gốc từ hai chữ “tứ trấn”. Người ta còn giải nghĩa tứ trấn là bốn trấn bao quanh thủ đô Hà Nội, là Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam và Hà Đông (thời Trịnh Nguyễn phân tranh).

Thật ra, đối với miền Nam hai chữ “tứ chiếng” có nguồn gốc từ “tứ chánh” thời đàng cựu. “Tứ chánh” có nghĩa là “làm cho ngay”.

Số là thời Tả quân Lê Văn Duyệt (chánh tướng Duyệt) ngồi trấn thủ Gia định, Long Vân hầu Trương Tấn Bửu làm phó (phó tướng Luông). Hai ông có cho tụ tập dân dân lưu linh lưu địa, sống không có sổ bộ, đưa họ vào cuộc sống hợp pháp. Làm như vậy, gọi là “tứ chánh”. Hai ông cho lập “tứ chánh điếm” cho những người dân bất hợp pháp nầy tạm trú để làm giấy tờ, sau đó, đưa họ đi khẩn hoang lập làng, gọi là “Tứ chánh thôn”. Họ không dám nói chữ “Chánh” vì kiêng cử danh gọi ông “Chánh tướng” (Lê Văn Duyệt), bởi vậy “tứ chánh” nói trại thành “tứ chiếng”.

Đã gọi là nơi “giang hồ tứ chiếng” thì đôi khi đòn phép giang hồ tung ra không kịp đỡ. Nạn nhân đôi khi là những cô gái nhẹ dạ:

Sài Gòn mũi đỏ, Gia Định xúp-lê

Giã hiền thê ở lại lấy chồng

Thoàn anh ra cửa như rồng lên mây

Cái thằng bạt tình lang dụ dỗ con gái người ta, rồi cao bay xa chạy mà mừng như “rồng lên mây” thì thiệt là hết biết. Câu này nhắc lại hồi thời Tây đã qua, mũi ghe ở Sài Gòn bao giờ cũng sơn màu đỏ (Sài Gòn mũi đỏ), đò máy ở Sài Gòn, Gia Định đã dùng còi điện để báo hiệu, chớ không còn đánh chuông leng keng (Gia Định xúp-lê).

Nhiều cô gái than dài vì lầm theo miệng lưỡi của bợm sở khanh:

Sông Sài Gòn, cầu Bình Lợi

Tui tưởng mình chồng, tui vợ

Tui chờ đợi hết hơi

Ai dè đàng điếm nói chơi qua đường!

Đôi khi oan gia ngộ oan gia, chàng đã quất ngựa truy phong, nhưng tình cờ gặp lại, bị nàng níu áo hỏi:

Đất Sài Gòn nam thanh nữ tú

Cột cờ thủ ngữ cao rất là cao

Vì thương anh, em vàng vỏ má đào

Tìm anh khắp chốn nhưng nào thấy anh.

Chàng làm ra vẻ mặt chay mày đá, trả lời liền:

Trái cau nho nhỏ, cái vỏ xanh xanh

Anh gặp em giữa chợ Bến Thành

Bầy con em đông đúc, anh phải đành vậy thôi.

Đã sống thì ai cũng vậy, càng trải qua những trắc trở lọc lừa, càng có nhiều kinh nghiệm. Miệng lưỡi của các chàng trai vẫn ngọt ngào:

Chợ Bến Thành đèn xanh đèn đỏ

Anh nhìn cho tỏ, thấy rõ đèn màu

Lấy em anh đâu kể sang giàu

Rau dưa, mắm muối nơi nào hơn em?

Nhưng, các cô gái đã không còn nhẹ dạ dễ tin nữa. Họ biết rõ lòng dạ của những kẻ “bãi buôi lỗ miệng”. Họ trả lời thẳng thét:

Trầu Sài Gòn ăn chơi nhả bã

Thuốc xì gà hút đã lại phà hơi

Anh thấy em giàu muốn dựa mà chơi

Chớ đâu phải chỉ dốc chỗ nơi vợ chồng!

Nhiều cô gái quê, sau khi đã hiểu rõ những sự thật ở đàng sau những lời dụ dỗ, sau khi đã trải qua những thực tế phủ phàng, đã tỉnh ngộ, quay về với cuộc đời đồng ruộng, tuy khổ cực, nhưng không phải xô bồ chen lấn, nhiều khi nhục nhã trăm đường:

Rạng mai hai ngã phân chia

Sài Gòn anh ở, em dìa Cà Mau


*  * *

Ôi, người viễn khách,

Sài Gòn khi xưa vốn là nơi yên lành. Thời đô hộ của Tây, Sài Gòn biến thành nơi đèn màu “ngọn xanh ngọn đỏ”. Chánh sách cai trị của thực dân, dùng sự trác táng trụy lạc để ru ngủ dân Sài Gòn, biến Sài Gòn thành nơi chốn ăn chơi. Những tay chơi khét tiếng Nam Kỳ như cô Ba Trà, cô Tư Nhị, cô Ba Pho, Bạch Công Tử (Phước George), Hắc Công Tử (Trần Trinh Qui) đều đổ xô về Sài Gòn, ngập chìm đời sống trong ánh đèn màu.

Nhưng, Sài Gòn vẫn là nơi tụ hội của những người yêu nước không bị chánh sách của Tây làm cho lạc hướng. Những Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Trạch, Hồ Văn Ngà, Phan Văn Hùm, Nguyễn Văn Sâm, Dương Văn Giáo v.v… đã dùng chính những tinh hoa tự do dân chủ của nền văn minh Tây phương để đánh Tây. Sài Gòn đã nhiều lần nổi dậy, khí thế bừng bừng. Chỉ tiếc rằng cuộc nổi dậy này đã bị Cộng Sản phá nát vì họ muốn độc quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến.

Sài Gòn có mặt tốt, có mặt xấu như tất cả các thành phố lấy thương mại bán buôn, phát triển kinh tế làm chính. Nhưng, dù gì đi nữa, hai chữ “Sài Gòn” vẫn vĩnh viễn ở trong tim của mọi người.

NGÔ PHỤNG ANH


ĐỌC THÊM:
DỦ HỌC DỦ NGU - NGUYỄN ĐỨC LẬP



Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Văn và Sử là hai bộ môn liên hệ mật thiết, đặc biệt thơ văn ái quốc và lịch sử không thể tách rời. Muốn có cái nhìn chính xác về giá trị thơ văn tiền bán thế kỷ 20, phải để lòng vào giai đoạn lịch sử đó. Lịch sử hơn bốn nghìn năm bảo chủng và sinh tồn trên giải đất quê hương, trải qua vô vàn khó khăn, đau thương, gian khổ, đủ nói lên truyền thống yêu nước thương nòi của dòng giống Việt...
lovelittlesaigon.org đã đưa MƯA GIÓ SÔNG TƯƠNG với bản PDF của Quán Ven Đường. Trong tủ sách tồn trữ tại Thư Viện Việt Nam có ghi "lý lịch" của tập thơ này như sau: "- Mưa Gió Sông Tương, thơ Tương Phố trong thời gian từ 1915 đến 1949, in năm 1960, bản chính, rất hiếm, do chính hiền muội của thi sĩ Tương Phố là cụ bà Phạm Hoàng Kim tặng. và tập thơ Giọt Lệ Thu có chữ ký của chính nữ sĩ Tương Phố, cũng được hiền muội của thi sĩ là cụ bà Phạm Hoàng Kim chụp phó bản, tặng. Ngày 6 tháng 3 năm 2024, bạn Nguyễn Tín (ông xã Tara Thu) bay từ New York qua để bắt tay lắp đặt máy quét (Scan) và tập thơ Mưa Gió Sông Tương được bạn Nguyễn Tín chăm sóc đưa lên có màu nền từ nguyên bản. Kể từ nay Thư Viện chúng ta sẽ theo sự chỉ dẫn của bạn Nguyễn Tín để đưa các cuốn sách quý lên bằng chính bản PDF của Thư Viện Việt Nam...
Ông Trần Văn Thành lại là đại đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An, thuộc phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông đã được Đức Phật Thầy trao cho một cây cờ, một cái ấn và một tấm áo màu dà, để dùng trong công cuộc đền nghĩa núi sông. Ông đã kết hôn với bà Nguyễn Thị Thạnh, người ở rạch Sa Nhiên, Sa Đéc. Theo người cố cựu nói lại, vóc người bà rất nhỏ bé, nhưng võ nghệ cao cường, chữ nghĩa cũng rất rành. Vì ông được gọi là Đức Cố Quản, bà cũng được gọi là Đức Bà Cố Quản. Sau khi quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, các quan chức của nhà Nguyễn đã theo lịnh triều đình rút về Bình Thuận và Huế để chờ nhận chức vụ khác. Ông ở lại miền Nam, lo tổ chức đánh Pháp, giành lại đất nước.
Tôi cầu cho quý thầy, quý anh, chị làm được. Nếu làm không xong thì các em, các cháu tiếp tục. Nhưng tôi tin rằng thành quả của thư viện nay đã nhìn thấy rồi. Khi cháu Tánh yêu cầu tôi viết cảm nghĩ của tôi về Thư viện, tôi hỏi ra nay thư viện đã có năm sáu chục ngàn cuốn sách, hàng ngàn cổ vật, sưu tầm, kỷ vật quý giá... Đây là tài sản chung của mọi người Việt không phải bây giờ mà còn lưu lại mai sau. Ngoài tài sản cũ sưu tập ấy, thư viện còn viết, in sách, biên khảo giá trị... Quả thật quý vị làm được những việc ý nghĩa quá chừng. Tôi tự nguyện là một thành phần của thư viện, mãi mãi....
Trọn bộ Tạp chí PHỔ THÔNG của Nhà báo Nguyễn Vỹ từ số 1 ngày 1 tháng 11 năm 1958, đến số 270 ngày 1 tháng 7 năm 1971 được lưu trữ tại Thư viện Đại học Cornell Hoa Kỳ. Ông Võ Phi Hùng đã bỏ công chụp lại từng trang của ngần ấy tờ báo để cống hiến cho chúng ta cùng có dịp đọc một tạp chí có giá trị được mọi người công nhận. Nhân đây, lovelittlesaigon.org giới thiệu và vinh danh các ân nhân có công lớn trong việc phổ biến tạp chí Phổ Thông... LƯU Ý: KHÔNG ĐỌC ĐƯỢC BẰNG CELL, thành thật cáo lỗi.
"Trăm sự đều nhờ tiền. Nhìn về tương lai phát triển ư? Nhờ các anh và đồng bào các giới tiếp tay." Nhà báo Du Miên tâm sự tiếp: "Chúng tôi đa? đi được những bước chập chửng, chúng tôi dự trù qua hết năm thứ ba, thế nào cũng phải tìm một địa điểm rộng hơn và dưới lầu..." Tất cả chúng ta rồi sẽ ra đi (theo ngưoi bạn Trầm Tử Thiêng), nhiều lúc tôi tự hỏi mình có còn để lại gì không? Câu trả lời mà tôi tìm được khi thăm thư viện VN là: "Mình để lại cho các con, em, cháu trẻ vốn liếng văn hóa của cha ông mình". Sinh hoạt thư viện Việt Nam đáp ứng được nhu cầu đó. Nếu quý bạn đọc được những dòng tâm tình này mà muốn để lại gì cho mai sau, hãy mang đến Thư Viện VN 1 cuốn sách Việt Ngữ. Cám ơn quý bạn.
Rồng Tiên chỉ là biểu tượng. Lạc Long Quân có cha mẹ là người, hiển nhiên ngài là một người. Người ấy tài ba đức độ vượt bực, không ai có thể sánh cùng, ví như rồng trong đám mày râu. Bà Âu Cơ con vua Đế Lai, cũng hiển nhiên là người, một người nhan sắc tuyệt trần, nết na phẩm hạnh như tiên trong đám quần thoa. Rồng Tiên trong gốc nguồn lịch sử dân tộc Việt không phải là vật tổ (totem) như cái nhìn sai lạc của một số sử gia Tây phương phát xuất từ những dân tộc có vật tổ.
... Thư Viện sắp bước qua năm thứ hai mươi lăm. Anh Bùi Đắc Danh đã cùng anh chị em trong nhóm đã kiên trì không biết mệt. Nhưng nhiều người đã không thể cưỡng được với định luật tự nhiên. Nhiều anh đã đi thật xa. Vài anh đã xuống dần sức lực, đi đứng chậm lại. Vài anh cần tới cây gậy ba-ton hay phải vịn bàn mới đứng lên được. Người già người yếu. Thư Viện cũng già theo. Bài viết này của anh Bùi Đắc Danh đã được đăng trong Kỷ yếu Thư Viện Việt Nam năm 2000, sau một năm Thư Viện ra đời. Giờ đây trích đăng lại, Thư Viện đang chuẩn bị bước sang năm thứ 25 – một phần tư thế kỷ.... Mời bạn đọc những gì anh Bùi Đắc Danh ghi lúc ấy.
Để quý bạn biết thêm về quá trình gom góp sách và các loại đồ quý tại Thư Viện Việt Nam, lovelittlesaigon.org tuần tự trích đăng (phải đánh máy lại tốn rất nhiều giờ) những ghi chép của anh chị em sáng lập cùng các thiện nguyện viên và thân hữu (mà nay nhiều người đã bỏ cuộc chơi). Ngoài 2 cuốn Kỷ yếu 2000 và 2001 có nhiều bài và hình ảnh, các bản tin sinh hoạt Thư Viện cũng có những ghi chép, bài viết giá trị. Bài này trích ra từ Kỷ yếu 2000. Bài này không kèm hình. Những đồ quý tại TVVN sẽ được giới thiệu kèm hình ảnh trong một bài khác.
Dù thực dân phương Bắc, với mưu đồ đồng hóa, đã nghìn năm ra sức xóa bỏ cội nguồn dân tộc Việt bằng cách đốt phá đền đài bi chú, đốt sách sử, tịch thu sách quý đem về nước họ. Đối phó với hành vi nham hiểm ấy, người dân Việt một mặt tồn trữ văn hóa vào văn chương truyền khẩu, một mặt luân lưu ngọc phả tiền nhân một cách kín đáo, can đảm, trường kỳ trong dân gian, sao chép chia nhau gìn vàng giữ ngọc. Giặc càng đốt phá miếu đình, người Việt càng tùy cơ xây dựng lại, nơi nguy nga, nơi nhỏ bé, nhưng nơi nào cũng được tôn kính, sùng bái, thành khẩn khói nhang để tựa lưng vào quá khứ, đi về với lịch sử. Do đó không vong bản.
VHV FOUNDATION - THƯ VIỆN VIỆT NAM
VIETNAMESE CULTURAL CENTER

10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843
E-mail: info@lovelittlesaigon.org