BÀI MỚI NHẤT
07 Tháng Mười Một 2025(Xem: 121)
Trong suốt hơn 100 năm nay, người Việt của ba, bốn thế hệ đều quen thuộc với câu ca dao thật mộc mạc, phổ thông đã thấm sâu vào hồn bao người. Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Điểm đặc biệt là hai câu ca dao này không những đã vượt thời gian mà còn vượt cả không gian, đi đến miền nào trên đất Việt đều được người miền ấy uyển chuyển thay đổi đôi ba địa danh để địa phương hóa hai câu nghe thật thỏa nguyện. Từ miền Bắc nghe văng vẳng nơi chốn Hà Nội: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Đến miền Trung trên dòng sông Hương lại nghe rõ câu ca: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. Ấy thế mà vào đến trong Nam cũng chừng đó “gió đưa”, “tiếng chuông”, “canh gà” mà lại biến hóa thành: Gió đưa tàu chuối la đà, Tiếng chuông Xá Lợi, canh gà Thủ Thiêm. (trích từ bài: Thọ Xương hay Thọ Cương -Thái Văn Kiểm, 2001) ...
01 Tháng Tư 2025(Xem: 2030)
Vào lúc 11 giớ sáng Chủ nhựt 30 tháng 3 năm 2025 phòng sinh hoạt của Thư Viện Việt Nam góc đường Westminster và Euclid đã không còn chỗ trống. Trên 250 quan khách và đồng hương đã đến đây - như thông lệ hàng năm - để nhận 1 cuốn sách bằng tiếng Anh có nội dung độc đáo: Viết về lịch sử hình thành Little Saigon. Cuốn sách dày 310 trang, ghi lại diễn tiến từ 1975 đến 2024 tất cả những sinh hoạt liên quan đến sự hình thành của Little Saigon. Tác giả là 2 nhà báo sống tại Little Saigon ngay từ lúc khởi đầu, đã sưu tập tài liệu và nhất là hình ảnh để đưa vào tác phẩm. Trong buổi ra mắt sách, tác giả công phu mời các nhân vật làm business hay sinh hoạt tại Little Saigon từ lúc khởi đầu đền trực tiếp nói chuyện với quan khách...
25 Tháng Ba 2025(Xem: 1950)
Nạn đói năm Ất Dậu 1945 để lại những nỗi đau đớn tột độ cho những người sống sót và ấn tượng kinh hoàng cho những người đã chứng kiến. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại xảy ra một biến cố thảm thương như thế.Hoàn cảnh và những nguyên nhân nào đã đưa đến nạn đói năm Ất Dậu? Mời độc giả tìm đọc trong bài viết này với nhiều chi tiết gây xúc động mạnh mặc dù sự việc đã xảy ra 80 năm trước đây.
12 Tháng Giêng 2025(Xem: 5684)
In the final days of May, 1975, it was a time of book persecution for the people of South Vietnam. As soon as the Communists seized Saigon, they hastily ordered the confiscation of all South Vietnamese books and newspapers, which they labeled as "decadent and reactionary culture."
12 Tháng Hai 2024(Xem: 2574)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
18 Tháng Giêng 2024(Xem: 3669)
Đài VNATV thực hiện 2 videos về buổi lễ tưởng niệm Nhà văn, Nhà báo, Nhà giáo Trần Lam Giang tại Phòng Sinh Hoạt Thư Viện Việt Nam Little Saigon (Vietnamese Cultural Center - VHV Foundation), 10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843. Tổ chức trong nội bộ và một số bạn học cùng thời với người quá cố.
12 Tháng Giêng 2024(Xem: 2415)
Trong cuộc nội chiến, hai kẻ địch văn hóa là : - Văn hóa cổ truyền hay văn hóa Sài Gòn thì mọi người dân Việt ở hải ngoại hay quốc nội đều hay biết vì hiện đang sống với , - Văn hóa XHCN thì ở miền Nam ít người biết đến vì 2 lý do sau : 1) Cuộc sống ngắn ngủi 10 năm (1975-1986) của văn hóa XHCN tại miền Nam, 2) Hầu như không có tác giả nào cả quốc gia lẫn cộng sản viết về văn hóa XHCN và cuộc nội chiến văn hóa Bắc Nam. Đó là lý do chúng tôi dành phần 1 và phần 2 cho văn hóa XHCN và phần 3 cho cuộc nội chiến văn hóa.
12 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 2881)
Tác giả ghi trong phần « Tự Luận về Bản In tại hải ngoại » : « Ba mươi năm chiến tranh (1945-1975), một cuộc chiến mà người Việt hầu như đóng vai « được mướn » để đánh lẫn nhau, là ba mươi năm tàn phá triệt để như thể một cuộc đổi đời. Ba mươi năm chiến tranh đã qua. Hơn mười năm cuồng say chiến thắng kéo theo hận thù, tù đày, cũng đã qua. « Thua » hay « Thắng » thì cả hai đều tỉnh giấc trước điêu tàn của đất nước. Một thời kỳ đại loạn chưa từng thấy trong lịch sử của dân tộc Việt. Đại loan cho đời sống vật chất. Vô cùng quan trọng nữa là đại loạn cho nếp sống tinh thần, nền móng của tổ chức xã hội. Hậu quả là trước mắt chúng ta hình ảnh một xã hội bị phân hóa và băng hoại cực độ, khiến cho đại chúng không có được một niềm tin để sống, để hành động trong tinh thần hướng thượng với ý thức giúp vào phúc lợi lâu dài của dân tộc… »
04 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 1832)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
28 Tháng Mười Một 2023(Xem: 2059)
“Năm Quý Mùi (1943) là năm trăng mờ gió thảm, tiếng chiến tranh inh ỏi khắp hoàn cầu, toàn xứ Đông Dương bị quân Nhật Bản tràn vào, họa chiến tranh mỗi ngày một lan rộng. Dân Việt Nam bị đói kém đau khổ đủ mọi đường, lại căm tức về nỗi nước nhà suy nhược phải bị đè nén dưới cuộc bảo hộ trong sáu bẩy mươi năm, cho nên ai cũng muốn nhân cơ hội ấy mà gây lại nền độc lập đã mong mỏi từ bao lâu. Tôi là một người nước Việt Nam, lẽ nào lòng tôi lại không rung động theo với dịp rung động của những người ái quốc trong nước? Nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, lòng người ly tán, nhiều người lại muốn lợi dụng cái tiếng ái quốc để làm cái mối tư lợi cho mình, vì vậy mà tôi chán nản không dự vào đảng phái nào cả, mà cũng không hành động về phương diện chính trị. Ngoài những lúc làm những công việc hàng ngày phải làm, khi rỗi rãi gặp những bạn thân, nói đến chuyện thiên hạ sự và việc nuớc nhà, thì tôi cũng nói chuyện phiếm và mong cho nước nhà chóng được giải phóng…”

CHỮ NGHĨA MÌNH

09 Tháng Hai 20249:12 SA(Xem: 5956)
pic anh danh
Anh Bùi Đắc Danh tại Thư Viện những ngày đầu
(cuối năm 1999)


CHỮ NGHĨA MÌNH
(Viết từ cảm xúc khi đọc hàng chữ: “Có phải chú là lính mình không?)


GIỚI THIỆU: 

Sau buổi khai trương Thư Viện, anh Bùi Đắc Danh tình nguyện phụ việc chăm sóc sách vở cùng nhóm anh chị em sáng lập và đông đảo các bạn trẻ đã miệt mài nhiều tháng trời để đóng kệ sách, tủ, sơn quét dọn dẹp để có được một nơi “gọi là thư viện”. “Nơi gọi là” chỉ vỏn vẹn vài trăm sq.ft. đi mươi bước là đụng tường. Gọi cái đó là… thư viện là chẳng đặng đừng. Là một Đốc sự tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, anh Danh làm tất cả mọi thứ mà anh thấy anh “gai mắt” phải làm “ngó cho được”. Thế là anh bỏ tiền túi mua sắm búa, mỏ lết, trục vít, cưa, dây điện, bóng đèn… hùm bà lằng để rị mọ làm từ sáng đến chiều… Phải nói là anh Danh là người bỏ nhiều giờ nhất cho Thư Viện suốt 25 năm qua. Ban sáng lập từng nói trước mỗi lần cắt bánh sinh nhựt, “không có anh Danh thì Thư Viện không được như thế này”. Ngay từ đầu Thư Viện không đặt nặng hình thức bề ngoài, không ai có “chức danh” gì cả. Chẳng có ai là giám đốc, giám xúi, cũng chẳng có ai là quản thủ thư viện. Nhưng vai trò của anh Danh vừa bao hàm cả vai trò giám đốc điều hành, vừa là quản thủ thư viện. Khi Thư Viện hết tiền không còn trả lương nổi cho người điều hành, anh Danh làm thay (và chưa giờ có thù lao). Việc mở và đóng cửa, nhất là trong mùa đại dịch, cũng một tay anh Danh. Nhưng điều đáng nói là, anh chưa bao giờ làm phật lòng bất cứ ai đến với Thư Viện, từ độc giả, thân hữu và anh chị anh trong nhóm..

Thư Viện sắp bước qua năm thứ hai mươi lăm. Anh Bùi Đắc Danh đã cùng anh chị em trong nhóm đã kiên trì không biết mệt. Nhưng nhiều người đã không thể cưỡng được với định luật tự nhiên. Nhiều anh đã đi thật xa. Vài anh đã xuống dần sức lực, đi đứng chậm lại. Vài anh cần tới cây gậy ba-ton hay phải vịn bàn mới đứng lên được. Người già người yếu. Thư Viện cũng già theo.

Bài viết này của anh Bùi Đắc Danh đã được đăng trong Kỷ yếu Thư Viện Việt Nam năm 2000, sau một năm Thư Viện ra đời. Giờ đây trích đăng lại, Thư Viện đang chuẩn bị bước sang năm thứ 25 – một phần tư thế kỷ.

Mời bạn đọc những gì anh Bùi Đắc Danh ghi lúc ấy.

Admin lovelittlesaigon.org



Sống tha hương nơi xứ người, bà con mình nhận ra nhau qua tiếng nói. Những lúc gặp da vàng, tóc đen... thấy gần gũi sao đó bèn mạnh miệng chào hỏi trước và vui mừng biết bao khi được nghe trả lời bằng tiếng Việt. Tiếng nói sao mà thân thương, đậm tình dân tộc. Nghe tiếng nói ấy như thấy cả khung trời Việt Nam hiện ra trong mông lung với tiếng reo quà bánh, tiếng nói chuyện trong tiệm nước, lời hàn huyên trong gia đình, tiếng chửi mắng trong hàng xóm, ... và nghe đâu đó một lời ca tân nhạc, một câu vọng cổ, một điệu hò Huế, một tiếng hát chèo... mà nhà thơ Luân Hoán đã “long lanh lệ trào” khi

“... Nhớ đâu đó giọng cải lương bay vào...”

hay

“... Nghe Hoàng Oanh hát như chim gọi đàn...”

(Ngồi Lê)

Cùng nói, cùng nghe, cùng hiểu, cùng thấm thía... nên đã cùng tìm đến nhau, quần tụ cư ngụ gần nhau. Trong cái đồng cảm đó, dần dần bà con cùng nhận ra nhu cầu chữ nghĩa để ghi dấu lại tiếng nói ruột thịt ấy với bao tâm tư, tình cảm của những mảnh đời phiêu bạt mà lòng vẫn còn vương vấn với quê hương. Từ đó, báo chí sách vở, lớp học Việt ngữ, đài phát thanh, đài truyền hình, phim ảnh, “website”, “internet”... lần lượt xuất hiện. Tất cả những thứ đó đều là chữ nghĩa mình. Một môi trường.

Đâu có phải tới lúc nầy mới có chữ nghĩa mình. Có lâu rồi, thân thuộc với nó lắm rồi. Nhưng cuộc đổi đời 1975 khiến nó cũng phải trôi theo vận nước khi có sự xuất hiện, của một thứ tiếng Việt, chữ Việt mà ai mới biết qua đều cảm thấy lạ. Cũng tiếng Việt, chữ Việt nhưng cách xử dụng từ ngữ khi viết cũng như khi nói rất “mới mẻ” đến nỗi hai người Việt Nam có cùng tổ tiên, lịch sử mà lại không hiểu nhau được.

Trước 1954 chữ nghĩa Việt Nam đâu đến nỗi khó hiểu như vậy giữa ba miền Bắc, Trung, Nam. Sau cái gọi là chiến thắng và chắc nghĩ rằng vùng “được giải phóng” như chỗ trủng khô cằn nên dòng chữ nghĩa mới lạ đã ào ạt, tuôn tràn vào Sàigòn. Đến cùng với lời tuyên truyền là văn nghệ ca hát, phim ảnh, sách vở, báo chí... Trong khi những thứ đó Sàigòn cũng có và cũng bằng chữ nghĩa Việt Nam thì bị cấm đoán, tịch thu, hủy diệt vì bị kết án là nọc độc, “tàn dư Mỹ Ngụy”. Thôi thì ráng chịu mà “nuốt” cái mới. Khổ một nỗi là đã cố gắng nhiều mà vẫn “nuốt” không vô, mặc dù được cho biết, riêng về báo chí, có đến mấy trăm tờ đủ loại, nhưng tiếc thay chỉ có cùng một nội dung với cái giọng điệu huênh hoang, không tưởng, cứng nhắc.

Không những người trong nước có cái khắc khoải nhớ nhung chữ nghĩa mình mà người Việt hải ngoại đã thấy “đói chữ” khi rời khỏi quê nhà. Bị dằn vặt bởi nỗi nhớ đất nước, ông bà, họ đã cố moi trong đống hành lý mang theo có cái gì Việt Nam còn lại không. Có, có tiếng nói Việt Nam... và... phải rồi... chữ nghĩa Việt Nam mình nữa. Cho nên ngay từ khi còn đứng trên vùng đất xa lạ, nhóm người Việt 1975 đã tìm đến nhau và cho “hồi sinh” chữ nghĩa mình nơi hải ngoại. Một thứ lai lịch. Rồi nó được củng cố và đượm phần sinh động qua lớp người vượt biên vượt biển cũng như thêm phần phong phú khi có những đợt di dân định cư (1).

Tinh thần của họ được hoàn hồn dần vì ở đây ta gặp lại ta qua chữ nghĩa mình. Với sự bắt đầu và được tiếp nối, chữ nghĩa mình đã được ghi khắc lại, truyền bá, phổ biến bằng đủ loại hình thức và phương tiện trong ý thức bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống dân tộc đích thực. Một thể hiện chính nghĩa. Những ai còn nhớ ngày ở trại tị nạn, vớ được cuốn tạp chí Việt ngữ nào xuất bản tại hải ngoại là cứ miệt mài, nâng niu như tìm lại được báu vật đã bị đánh mất hay lãng mạn như gặp lại người tình chung thủy đi xa trở về với cái bồi hồi mê đắm của thứ “tân thú bất như viễn qui” vậy. Biết bao lời diễn tả sự quý trọng, cái bâng khuâng, cái vui sướng, cái “đã” khi gặp lại chữ nghĩa thân thuộc ngày nào. Cám ơn chữ nghĩa đã làm cho người như sống lại và sẽ giữ gìn con người trong mai hậu. Ngoài ra, chữ nghĩa mình ở hải ngoại còn mang tính đấu tranh phản kháng lại sự độc tài của nhà cầm quyền cộng sản trong nước, nơi phát xuất thứ chữ nghĩa mới lạ được dùng để tuyên truyền lệch lạc ý thức dân tộc và lịch sử. Theo đó, chữ nghĩa phản kháng hiện hữu như một bài học cảnh giác đồng thời giải bày cho con cháu lý do vì sao ông bà, cha mẹ đã phải đem chúng rời khỏi cội nguồn quê hương yêu dấu và hình thành tại hải ngoại một cộng đồng Việt Nam Tị Nạn Cộng Sản.

Cùng với thời gian và thử thách, chữ nghĩa mình làm nhiệm vụ trên trong điều kiện và hoàn cảnh như thế nào?

Trước hết, không như phía bên kia với sự yểm trợ và lãnh đạo hùng mạnh từ nhân lực đến tiền tài, chữ nghĩa mình “ra trận” chỉ với ý thức trách nhiệm và tấm lòng của công dân đối với đất nước và dân tộc. Một thứ “châu chấu đá xe”. Mặt khác vì đặc trưng phản kháng nên phía bên kia luôn muốn khống chế chữ nghĩa mình.

Với cái thế “lấy thịt đè người” họ dùng mọi thủ đoạn từ tuyên truyền xảo quyệt đến thóa mạ, lèo lái cùng với tà thuật lũng đoạn, lôi kéo, mua chuộc, giăng bẫy những ai yếu lòng đang tâm làm bồi bút quảng cáo cho chữ nghĩa mới của họ hòng khỏa lấp, bịt miệng, vô hiệu hóa chữ nghĩa mình. Sau nữa, giới thưởng lãm chữ nghĩa mình ngày càng ít đi trong “... cái cõi ngày càng hụt người...” và nó mang thân phận của “... cái thứ chữ sẽ thành tử ngữ sau một hai đời lưu vong... cũng như nó đang đi vào...” con đường đã tuyệt lộ rành rành... vì “... giao lưu văn hóa một chiều...” (2)

Bi kịch như vậy nhưng chữ nghĩa mình vẫn cứ lãng mạn, hào hùng và kiên cường tồn tại vì chính nghĩa cùng với ước vọng tìm một chỗ đứng đàng hoàng cho Việt Nam trong thế giới văn minh. Hành trình còn dài, nhiều thế hệ sẽ tiếp nối và chữ nghĩa mình vẫn mang sứ mạng của thứ chính tích hùng hồn và là một kim chỉ nam đáng tin cậy. Có thể một ngày nào đó, con cháu Việt Nam trong và ngoài nước sẽ phải tìm đến “tàng kinh các”, như một Thư Viện Việt Nam nối dài sau 1975 hay một văn khố lưu vong mà không có chánh phủ nào trả tiền công nhưng vẫn cứ cặm cụi sưu tầm, thu thập, bảo tồn, phổ biến một thứ chữ nghĩa Việt Nam mà không cần phải tranh luận gì hết vì tính tự nhiên, nguyên thủy trung thực, trong sáng, hiền hòa và tử tế của nó. Đó là chữ nghĩa mình, một báu vật, tinh thần được bà con mình cùng góp công sức giữ gìn từ bấy lâu nay.

BÙI ĐẮC DANH
(Trích trong Kỷ yếu Thư Viện Việt Nam năm 2000)


CHÚ THÍCH:

(1)   Chuyện dài “Ngắn Cổ Khó Kêu” của Nguyễn Đức Lập, nhà xuất bản Hoa Gấm, Hoa kỳ, 1989.

(2) “Viết như niềm ái ngại”, Cao Vị Khanh, diễn đàn báo Người Việt, ngày 31 – 05 – 2005, phát hành tại California, Hoa kỳ.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Lovelittlesaigon.org trang nhà Thư Viện Việt Nam hân hạnh được Giáo sư LẠP CHÚC NGUYỄN HUY cho phép phổ biến tác phẩm CAO ĐÀI 1997. Tác giả giới thiệu : « Ngay sau ngày 30/4/1975, Đạo Cao Đài gốc Tây Nịnh bị giải tán, nhiều chức sắc bị giam, đi tù cải tạo. Năm 1997, nhà Nước lập chi phái Cao Đài quốc doanh đặt dưới chế độ quản lý của nhà Nước cộng sản. Từ đó, các tín đồ Cao Đài tự chia ra làm hai thành phần: Cao Đài quốc doanh được người trong Đạo goi là Cao Đài 1997, là một công cụ chính trị do cộng sản dựng nên. Cao Đài 1926 (Cao Đài Chơn Truyền, Cao Đài gốc). Danh hiệu chính thức là “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi tắt là Đạo Cao Đài”. Cho đến nay, các tín đồ chơn truyền Cao Đài 1926 vẫn bị đàn áp bằng võ lực, các thánh thất đều bị Cao Đài 1997 tịch thu…”
Chương trình Sinh Hoạt Cộng Đồng đài VNATV giới thiệu về ngày "trình làng" website lovelittlesaigon.org. Hai nhà báo CNN Nguyễn Ngọc Chấn và Du Miên đã dành nguyên chương trình để loan báo ngày ra mắt website của Thư Viện Việt Nam vào trưa Chủ nhựt 19 tháng 11 năm 2023 tại Phòng Sinh Hoạt Thư Viện Việt Nam, số 10872 Westminster Avenue, Suites 214&215. Hai nhà báo đã lượt qua những ngày tháng từ ước mơ thành hiện thực: học hỏi những người đi trước và được "chân truyền", nhất là sự giúp đỡ hào phóng của nhiều bậc "sư phụ" trong lãnh vực website cũng như cách thức đưa sách lên trang mang....
Trong một phần tựa, tác giả viết: “Xưa ta chỉ học chữ, không ai học nôm. Nôm là tiếng nói thông thường của người nước ta, chữ là lối viết chung cho những nước đồng văn như nước Tàu và nước ta, chỉ có người đi học mới biết chữ. Người đi học lấy đạo Nho làm cốt, cho nên gọi thứ chữ ấy là chữ nho. Đời xưa người đi học chỉ tập làm văn bằng chữ nho, chứ không tập làm văn nôm. Tuy nhiên, người ta đã có tiếng nói riêng, thì thể nào cũng có khi cao hứng mà thốt ra bài thơ bài văn bằng tiếng nôm. Vì vậy từ cuối đời Trần về sau, cái trình độ văn học của ta đã lên cao, có nhiều người dùng quốc âm làm những bài văn bài thơ rất có giá trị…”
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
Qua một số tập hồi ký và tài liệu loại khác có được trong tay, tác giả cố gắng trình bày tương đối đầy đủ và khách quan hơn so với quan điểm “chính thống” về nhân vật lịch sử Trần Trọng Kim cùng Nội các của ông, từ đó có thể suy nghiệm được những bài học lịch sử hữu ích áp dụng cho hiện tại và tương lai.... Trần Trọng Kim được đánh giá là một học giả uyên thâm cả tân và cựu học, là người tận tụy cho ngành giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, ông là người có tư tưởng bảo thủ và dân tộc-bảo hoàng. Tác phẩm Việt Nam Sử Lược được đánh giá là một trong những quyển sử Việt Nam có phong cách ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu, được tái bản nhiều lần...
.. Thư Viện Việt Nam hiện nay có đến 50,000 cuốn sách và muốn đưa lên trang web lovelittlesaigon.org. Trang web này có nhiều danh mục, độc giả chỉ cần bấm vào từng danh mục để tìm sách hay các tài liệu mình muốn. Độc giả chỉ cần bấm vào cuốn sách muốn đọc và sẽ thấy hướng dẫn để đọc trên máy điện toán. Như nhà báo Du Miên trình bày, sách không chỉ là tài liệu PDF mà độc giả dùng chuột của máy điện toán để kéo lên xuống từng trang, mà có hình từng cuốn sách, lại có thể lật từng trang qua lại như đang cầm một cuốn sách trên tay...
Những ngày cuối tháng 5 của 43 năm trước, là mùa sách nạn của dân chúng miền Nam. Cộng sản vừa cướp được Sài Gòn đã vội ra lệnh tịch thu tất cả sách báo miền Nam mà họ gọi là “văn hóa đồi trụy và phản động”. Họ huy động từng đoàn thanh niên học sinh, mang xe ba gác đi từng nhà lục soát sách mang đi đốt giữa những bộ mặt hốt hoảng, bất lực pha lẫn ngậm ngùi của chúng ta.... Hầu như toàn thể nhân loại văn minh coi việc đốt sách vở là một hành động man rợ. Vậy mà cuộc phần thư ác ôn này được cả hệ thống tuyên truyền của nhà nước nhảy xổ vào đánh phèng la cổ võ.... Đoàn diễn hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay. Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, đồng bào và các tiệm sách đã đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lý cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp...
Đã có lần nào bạn đặt chân lên đất Sài Gòn? Đối với dân Nam Kỳ Lục Tỉnh, Sài Gòn luôn luôn là một địa danh được ghi nhớ, được nhắc nhở đời đời. Người Tây phương gọi Sài Gòn là “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Người dân quê miền Nam, cho dù là ở miền Đông đất đỏ hay miền Tây nước mặn nước phèn, đều coi Sài Gòn là một chốn phồn hoa đô hội, với đèn màu “ngọn xanh ngọn đỏ”. Về phương diện lịch sử, hồi thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Sài Gòn đã từng được Lễ Tài Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (sử sách chép là Nguyễn Hữu Kính để tránh trùng tên với Đông Cung Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh, con của Thế Tổ Cao Hoàng Đế Gia Long) chọn làm nơi đóng tổng hành dinh khi ông lãnh quân bảo hộ Cao Miên và bảo vệ những người dân Việt di dân sinh sống tại miền Nam.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật và tinh thần duy lý phát triển mạnh mẽ, nhưng nhu cầu tìm hiểu và chứng nghiệm về linh hồn không hề giảm đi, vẫn tiếp tục được các nhà nghiên cứu chú tâm tìm hiểu với những phương tiện khoa học tối tân nhất. Linh hồn thực sự bí ẩn và vẫn luôn là một trong những vấn đề bí ẩn nhất của thế giới vật chất tương đối của loài người. Từ bao năm nay, linh hồn được tin là hiện hữu theo trường phái triết học duy tâm. Linh hồn, thuộc thế giới phi vật chất siêu hình, là đối tượng nghiên cứu của niềm tin tôn giáo hoặc một sự xác tín triết học, nhưng với triết học duy vật thì tất cả tư duy của chúng ta chẳng qua là kết quả của các phản ứng sinh lý hóa trong bộ não vật chất và không thoát khỏi số phận là đối tượng khảo sát của khoa học.
Nhìn lớp bụi vươn trên hàng tủ dọc cửa ra vào thư viện, độc giả có thể "đoán" ra tuổi của những chiếc tủ tự đóng này. Tủ "già" nhưng có nhiều đồ quý còn già hơn nhiều. Đặc biệt là các tủ đựng sách báo cũ, trước 1975 của Việt Nam Cộng Hòa, một vài cuốn vào thời Pháp thuộc. Kệ sách cũng do các thiện nguyện viên (đa số là Hướng Đạo Sinh) đóng tặng. Ở một góc trên cao là bảng hiệu "Thư Viện Việt Nam", là "tác phẩm" bằng tay của Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng thực hiện qua nghệ thuật xử dụng dây dừa (ngón nghề của Hướng Đạo Sinh)... Thư viện của chúng ta quá là dễ thương...
VHV FOUNDATION - THƯ VIỆN VIỆT NAM
VIETNAMESE CULTURAL CENTER

10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843
E-mail: info@lovelittlesaigon.org