BÀI MỚI NHẤT
07 Tháng Mười Một 2025(Xem: 122)
Trong suốt hơn 100 năm nay, người Việt của ba, bốn thế hệ đều quen thuộc với câu ca dao thật mộc mạc, phổ thông đã thấm sâu vào hồn bao người. Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Điểm đặc biệt là hai câu ca dao này không những đã vượt thời gian mà còn vượt cả không gian, đi đến miền nào trên đất Việt đều được người miền ấy uyển chuyển thay đổi đôi ba địa danh để địa phương hóa hai câu nghe thật thỏa nguyện. Từ miền Bắc nghe văng vẳng nơi chốn Hà Nội: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Đến miền Trung trên dòng sông Hương lại nghe rõ câu ca: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. Ấy thế mà vào đến trong Nam cũng chừng đó “gió đưa”, “tiếng chuông”, “canh gà” mà lại biến hóa thành: Gió đưa tàu chuối la đà, Tiếng chuông Xá Lợi, canh gà Thủ Thiêm. (trích từ bài: Thọ Xương hay Thọ Cương -Thái Văn Kiểm, 2001) ...
01 Tháng Tư 2025(Xem: 2030)
Vào lúc 11 giớ sáng Chủ nhựt 30 tháng 3 năm 2025 phòng sinh hoạt của Thư Viện Việt Nam góc đường Westminster và Euclid đã không còn chỗ trống. Trên 250 quan khách và đồng hương đã đến đây - như thông lệ hàng năm - để nhận 1 cuốn sách bằng tiếng Anh có nội dung độc đáo: Viết về lịch sử hình thành Little Saigon. Cuốn sách dày 310 trang, ghi lại diễn tiến từ 1975 đến 2024 tất cả những sinh hoạt liên quan đến sự hình thành của Little Saigon. Tác giả là 2 nhà báo sống tại Little Saigon ngay từ lúc khởi đầu, đã sưu tập tài liệu và nhất là hình ảnh để đưa vào tác phẩm. Trong buổi ra mắt sách, tác giả công phu mời các nhân vật làm business hay sinh hoạt tại Little Saigon từ lúc khởi đầu đền trực tiếp nói chuyện với quan khách...
25 Tháng Ba 2025(Xem: 1951)
Nạn đói năm Ất Dậu 1945 để lại những nỗi đau đớn tột độ cho những người sống sót và ấn tượng kinh hoàng cho những người đã chứng kiến. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại xảy ra một biến cố thảm thương như thế.Hoàn cảnh và những nguyên nhân nào đã đưa đến nạn đói năm Ất Dậu? Mời độc giả tìm đọc trong bài viết này với nhiều chi tiết gây xúc động mạnh mặc dù sự việc đã xảy ra 80 năm trước đây.
12 Tháng Giêng 2025(Xem: 5692)
In the final days of May, 1975, it was a time of book persecution for the people of South Vietnam. As soon as the Communists seized Saigon, they hastily ordered the confiscation of all South Vietnamese books and newspapers, which they labeled as "decadent and reactionary culture."
12 Tháng Hai 2024(Xem: 2574)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
18 Tháng Giêng 2024(Xem: 3670)
Đài VNATV thực hiện 2 videos về buổi lễ tưởng niệm Nhà văn, Nhà báo, Nhà giáo Trần Lam Giang tại Phòng Sinh Hoạt Thư Viện Việt Nam Little Saigon (Vietnamese Cultural Center - VHV Foundation), 10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843. Tổ chức trong nội bộ và một số bạn học cùng thời với người quá cố.
12 Tháng Giêng 2024(Xem: 2415)
Trong cuộc nội chiến, hai kẻ địch văn hóa là : - Văn hóa cổ truyền hay văn hóa Sài Gòn thì mọi người dân Việt ở hải ngoại hay quốc nội đều hay biết vì hiện đang sống với , - Văn hóa XHCN thì ở miền Nam ít người biết đến vì 2 lý do sau : 1) Cuộc sống ngắn ngủi 10 năm (1975-1986) của văn hóa XHCN tại miền Nam, 2) Hầu như không có tác giả nào cả quốc gia lẫn cộng sản viết về văn hóa XHCN và cuộc nội chiến văn hóa Bắc Nam. Đó là lý do chúng tôi dành phần 1 và phần 2 cho văn hóa XHCN và phần 3 cho cuộc nội chiến văn hóa.
12 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 2882)
Tác giả ghi trong phần « Tự Luận về Bản In tại hải ngoại » : « Ba mươi năm chiến tranh (1945-1975), một cuộc chiến mà người Việt hầu như đóng vai « được mướn » để đánh lẫn nhau, là ba mươi năm tàn phá triệt để như thể một cuộc đổi đời. Ba mươi năm chiến tranh đã qua. Hơn mười năm cuồng say chiến thắng kéo theo hận thù, tù đày, cũng đã qua. « Thua » hay « Thắng » thì cả hai đều tỉnh giấc trước điêu tàn của đất nước. Một thời kỳ đại loạn chưa từng thấy trong lịch sử của dân tộc Việt. Đại loan cho đời sống vật chất. Vô cùng quan trọng nữa là đại loạn cho nếp sống tinh thần, nền móng của tổ chức xã hội. Hậu quả là trước mắt chúng ta hình ảnh một xã hội bị phân hóa và băng hoại cực độ, khiến cho đại chúng không có được một niềm tin để sống, để hành động trong tinh thần hướng thượng với ý thức giúp vào phúc lợi lâu dài của dân tộc… »
04 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 1832)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
28 Tháng Mười Một 2023(Xem: 2059)
“Năm Quý Mùi (1943) là năm trăng mờ gió thảm, tiếng chiến tranh inh ỏi khắp hoàn cầu, toàn xứ Đông Dương bị quân Nhật Bản tràn vào, họa chiến tranh mỗi ngày một lan rộng. Dân Việt Nam bị đói kém đau khổ đủ mọi đường, lại căm tức về nỗi nước nhà suy nhược phải bị đè nén dưới cuộc bảo hộ trong sáu bẩy mươi năm, cho nên ai cũng muốn nhân cơ hội ấy mà gây lại nền độc lập đã mong mỏi từ bao lâu. Tôi là một người nước Việt Nam, lẽ nào lòng tôi lại không rung động theo với dịp rung động của những người ái quốc trong nước? Nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, lòng người ly tán, nhiều người lại muốn lợi dụng cái tiếng ái quốc để làm cái mối tư lợi cho mình, vì vậy mà tôi chán nản không dự vào đảng phái nào cả, mà cũng không hành động về phương diện chính trị. Ngoài những lúc làm những công việc hàng ngày phải làm, khi rỗi rãi gặp những bạn thân, nói đến chuyện thiên hạ sự và việc nuớc nhà, thì tôi cũng nói chuyện phiếm và mong cho nước nhà chóng được giải phóng…”

CHỮ NGHĨA MÌNH

09 Tháng Hai 20249:12 SA(Xem: 5964)
pic anh danh
Anh Bùi Đắc Danh tại Thư Viện những ngày đầu
(cuối năm 1999)


CHỮ NGHĨA MÌNH
(Viết từ cảm xúc khi đọc hàng chữ: “Có phải chú là lính mình không?)


GIỚI THIỆU: 

Sau buổi khai trương Thư Viện, anh Bùi Đắc Danh tình nguyện phụ việc chăm sóc sách vở cùng nhóm anh chị em sáng lập và đông đảo các bạn trẻ đã miệt mài nhiều tháng trời để đóng kệ sách, tủ, sơn quét dọn dẹp để có được một nơi “gọi là thư viện”. “Nơi gọi là” chỉ vỏn vẹn vài trăm sq.ft. đi mươi bước là đụng tường. Gọi cái đó là… thư viện là chẳng đặng đừng. Là một Đốc sự tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, anh Danh làm tất cả mọi thứ mà anh thấy anh “gai mắt” phải làm “ngó cho được”. Thế là anh bỏ tiền túi mua sắm búa, mỏ lết, trục vít, cưa, dây điện, bóng đèn… hùm bà lằng để rị mọ làm từ sáng đến chiều… Phải nói là anh Danh là người bỏ nhiều giờ nhất cho Thư Viện suốt 25 năm qua. Ban sáng lập từng nói trước mỗi lần cắt bánh sinh nhựt, “không có anh Danh thì Thư Viện không được như thế này”. Ngay từ đầu Thư Viện không đặt nặng hình thức bề ngoài, không ai có “chức danh” gì cả. Chẳng có ai là giám đốc, giám xúi, cũng chẳng có ai là quản thủ thư viện. Nhưng vai trò của anh Danh vừa bao hàm cả vai trò giám đốc điều hành, vừa là quản thủ thư viện. Khi Thư Viện hết tiền không còn trả lương nổi cho người điều hành, anh Danh làm thay (và chưa giờ có thù lao). Việc mở và đóng cửa, nhất là trong mùa đại dịch, cũng một tay anh Danh. Nhưng điều đáng nói là, anh chưa bao giờ làm phật lòng bất cứ ai đến với Thư Viện, từ độc giả, thân hữu và anh chị anh trong nhóm..

Thư Viện sắp bước qua năm thứ hai mươi lăm. Anh Bùi Đắc Danh đã cùng anh chị em trong nhóm đã kiên trì không biết mệt. Nhưng nhiều người đã không thể cưỡng được với định luật tự nhiên. Nhiều anh đã đi thật xa. Vài anh đã xuống dần sức lực, đi đứng chậm lại. Vài anh cần tới cây gậy ba-ton hay phải vịn bàn mới đứng lên được. Người già người yếu. Thư Viện cũng già theo.

Bài viết này của anh Bùi Đắc Danh đã được đăng trong Kỷ yếu Thư Viện Việt Nam năm 2000, sau một năm Thư Viện ra đời. Giờ đây trích đăng lại, Thư Viện đang chuẩn bị bước sang năm thứ 25 – một phần tư thế kỷ.

Mời bạn đọc những gì anh Bùi Đắc Danh ghi lúc ấy.

Admin lovelittlesaigon.org



Sống tha hương nơi xứ người, bà con mình nhận ra nhau qua tiếng nói. Những lúc gặp da vàng, tóc đen... thấy gần gũi sao đó bèn mạnh miệng chào hỏi trước và vui mừng biết bao khi được nghe trả lời bằng tiếng Việt. Tiếng nói sao mà thân thương, đậm tình dân tộc. Nghe tiếng nói ấy như thấy cả khung trời Việt Nam hiện ra trong mông lung với tiếng reo quà bánh, tiếng nói chuyện trong tiệm nước, lời hàn huyên trong gia đình, tiếng chửi mắng trong hàng xóm, ... và nghe đâu đó một lời ca tân nhạc, một câu vọng cổ, một điệu hò Huế, một tiếng hát chèo... mà nhà thơ Luân Hoán đã “long lanh lệ trào” khi

“... Nhớ đâu đó giọng cải lương bay vào...”

hay

“... Nghe Hoàng Oanh hát như chim gọi đàn...”

(Ngồi Lê)

Cùng nói, cùng nghe, cùng hiểu, cùng thấm thía... nên đã cùng tìm đến nhau, quần tụ cư ngụ gần nhau. Trong cái đồng cảm đó, dần dần bà con cùng nhận ra nhu cầu chữ nghĩa để ghi dấu lại tiếng nói ruột thịt ấy với bao tâm tư, tình cảm của những mảnh đời phiêu bạt mà lòng vẫn còn vương vấn với quê hương. Từ đó, báo chí sách vở, lớp học Việt ngữ, đài phát thanh, đài truyền hình, phim ảnh, “website”, “internet”... lần lượt xuất hiện. Tất cả những thứ đó đều là chữ nghĩa mình. Một môi trường.

Đâu có phải tới lúc nầy mới có chữ nghĩa mình. Có lâu rồi, thân thuộc với nó lắm rồi. Nhưng cuộc đổi đời 1975 khiến nó cũng phải trôi theo vận nước khi có sự xuất hiện, của một thứ tiếng Việt, chữ Việt mà ai mới biết qua đều cảm thấy lạ. Cũng tiếng Việt, chữ Việt nhưng cách xử dụng từ ngữ khi viết cũng như khi nói rất “mới mẻ” đến nỗi hai người Việt Nam có cùng tổ tiên, lịch sử mà lại không hiểu nhau được.

Trước 1954 chữ nghĩa Việt Nam đâu đến nỗi khó hiểu như vậy giữa ba miền Bắc, Trung, Nam. Sau cái gọi là chiến thắng và chắc nghĩ rằng vùng “được giải phóng” như chỗ trủng khô cằn nên dòng chữ nghĩa mới lạ đã ào ạt, tuôn tràn vào Sàigòn. Đến cùng với lời tuyên truyền là văn nghệ ca hát, phim ảnh, sách vở, báo chí... Trong khi những thứ đó Sàigòn cũng có và cũng bằng chữ nghĩa Việt Nam thì bị cấm đoán, tịch thu, hủy diệt vì bị kết án là nọc độc, “tàn dư Mỹ Ngụy”. Thôi thì ráng chịu mà “nuốt” cái mới. Khổ một nỗi là đã cố gắng nhiều mà vẫn “nuốt” không vô, mặc dù được cho biết, riêng về báo chí, có đến mấy trăm tờ đủ loại, nhưng tiếc thay chỉ có cùng một nội dung với cái giọng điệu huênh hoang, không tưởng, cứng nhắc.

Không những người trong nước có cái khắc khoải nhớ nhung chữ nghĩa mình mà người Việt hải ngoại đã thấy “đói chữ” khi rời khỏi quê nhà. Bị dằn vặt bởi nỗi nhớ đất nước, ông bà, họ đã cố moi trong đống hành lý mang theo có cái gì Việt Nam còn lại không. Có, có tiếng nói Việt Nam... và... phải rồi... chữ nghĩa Việt Nam mình nữa. Cho nên ngay từ khi còn đứng trên vùng đất xa lạ, nhóm người Việt 1975 đã tìm đến nhau và cho “hồi sinh” chữ nghĩa mình nơi hải ngoại. Một thứ lai lịch. Rồi nó được củng cố và đượm phần sinh động qua lớp người vượt biên vượt biển cũng như thêm phần phong phú khi có những đợt di dân định cư (1).

Tinh thần của họ được hoàn hồn dần vì ở đây ta gặp lại ta qua chữ nghĩa mình. Với sự bắt đầu và được tiếp nối, chữ nghĩa mình đã được ghi khắc lại, truyền bá, phổ biến bằng đủ loại hình thức và phương tiện trong ý thức bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống dân tộc đích thực. Một thể hiện chính nghĩa. Những ai còn nhớ ngày ở trại tị nạn, vớ được cuốn tạp chí Việt ngữ nào xuất bản tại hải ngoại là cứ miệt mài, nâng niu như tìm lại được báu vật đã bị đánh mất hay lãng mạn như gặp lại người tình chung thủy đi xa trở về với cái bồi hồi mê đắm của thứ “tân thú bất như viễn qui” vậy. Biết bao lời diễn tả sự quý trọng, cái bâng khuâng, cái vui sướng, cái “đã” khi gặp lại chữ nghĩa thân thuộc ngày nào. Cám ơn chữ nghĩa đã làm cho người như sống lại và sẽ giữ gìn con người trong mai hậu. Ngoài ra, chữ nghĩa mình ở hải ngoại còn mang tính đấu tranh phản kháng lại sự độc tài của nhà cầm quyền cộng sản trong nước, nơi phát xuất thứ chữ nghĩa mới lạ được dùng để tuyên truyền lệch lạc ý thức dân tộc và lịch sử. Theo đó, chữ nghĩa phản kháng hiện hữu như một bài học cảnh giác đồng thời giải bày cho con cháu lý do vì sao ông bà, cha mẹ đã phải đem chúng rời khỏi cội nguồn quê hương yêu dấu và hình thành tại hải ngoại một cộng đồng Việt Nam Tị Nạn Cộng Sản.

Cùng với thời gian và thử thách, chữ nghĩa mình làm nhiệm vụ trên trong điều kiện và hoàn cảnh như thế nào?

Trước hết, không như phía bên kia với sự yểm trợ và lãnh đạo hùng mạnh từ nhân lực đến tiền tài, chữ nghĩa mình “ra trận” chỉ với ý thức trách nhiệm và tấm lòng của công dân đối với đất nước và dân tộc. Một thứ “châu chấu đá xe”. Mặt khác vì đặc trưng phản kháng nên phía bên kia luôn muốn khống chế chữ nghĩa mình.

Với cái thế “lấy thịt đè người” họ dùng mọi thủ đoạn từ tuyên truyền xảo quyệt đến thóa mạ, lèo lái cùng với tà thuật lũng đoạn, lôi kéo, mua chuộc, giăng bẫy những ai yếu lòng đang tâm làm bồi bút quảng cáo cho chữ nghĩa mới của họ hòng khỏa lấp, bịt miệng, vô hiệu hóa chữ nghĩa mình. Sau nữa, giới thưởng lãm chữ nghĩa mình ngày càng ít đi trong “... cái cõi ngày càng hụt người...” và nó mang thân phận của “... cái thứ chữ sẽ thành tử ngữ sau một hai đời lưu vong... cũng như nó đang đi vào...” con đường đã tuyệt lộ rành rành... vì “... giao lưu văn hóa một chiều...” (2)

Bi kịch như vậy nhưng chữ nghĩa mình vẫn cứ lãng mạn, hào hùng và kiên cường tồn tại vì chính nghĩa cùng với ước vọng tìm một chỗ đứng đàng hoàng cho Việt Nam trong thế giới văn minh. Hành trình còn dài, nhiều thế hệ sẽ tiếp nối và chữ nghĩa mình vẫn mang sứ mạng của thứ chính tích hùng hồn và là một kim chỉ nam đáng tin cậy. Có thể một ngày nào đó, con cháu Việt Nam trong và ngoài nước sẽ phải tìm đến “tàng kinh các”, như một Thư Viện Việt Nam nối dài sau 1975 hay một văn khố lưu vong mà không có chánh phủ nào trả tiền công nhưng vẫn cứ cặm cụi sưu tầm, thu thập, bảo tồn, phổ biến một thứ chữ nghĩa Việt Nam mà không cần phải tranh luận gì hết vì tính tự nhiên, nguyên thủy trung thực, trong sáng, hiền hòa và tử tế của nó. Đó là chữ nghĩa mình, một báu vật, tinh thần được bà con mình cùng góp công sức giữ gìn từ bấy lâu nay.

BÙI ĐẮC DANH
(Trích trong Kỷ yếu Thư Viện Việt Nam năm 2000)


CHÚ THÍCH:

(1)   Chuyện dài “Ngắn Cổ Khó Kêu” của Nguyễn Đức Lập, nhà xuất bản Hoa Gấm, Hoa kỳ, 1989.

(2) “Viết như niềm ái ngại”, Cao Vị Khanh, diễn đàn báo Người Việt, ngày 31 – 05 – 2005, phát hành tại California, Hoa kỳ.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Trong đêm chủ nhật 5 tháng 9 vừa qua, một buổi sinh hoạt văn nghệ đã được tổ chức để những người có lòng thực hiện Thư Viện Việt Nam được nhìn ngắm công trình sau hơn 3 tháng ròng rã và cũng là dịp để trình diện thư viện với giới truyền thông, báo chí, và một số Mạnh Thường Quân. Thư Viện Việt Nam tọa lạc ngay trên đường phố chính Little Sàigòn, địa chỉ 5413 W. First Street, Suites E-D, Santa Ana, Ca 92703. Tel (714) 554-9397 rộng gần 1500 bộ vuông, được chia làm 2 khu vực, một khu dành cho sách báo và 1 khu dành cho đồ cổ, đồ mỹ thuật Việt Nam. “Thư Viện Việt Nam được chính quyền tiểu bang và liên bang cấp phái lai công nhận là hội hoạt động văn hóa giáo dục bất vụ lợi, hội Nhân Ái Foundation, Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam.” Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, người lớn tuổi nhất trong nhóm chủ trương đã trình bày sơ lược về mục đích và cơ cấu tổ chức, cách thức quản trị của thư viện....
Đốc sự Hoa Thế Nhân (Quốc Gia Hành Chánh Việt Nam Cộng Hòa) đã dành thời gian tâm tình cùng đồng tác già Việt Eden Địa đàng hạ giới. Vì sao đáng quan tâm? Đốc sự Hoa Thế Nhân và nhiều bằng hữu biết rất rõ về những nỗ lực của con dân Việt Nam Cộng Hòa sau 1975 đến được Hoa Kỳ: Họ tị nạn qua nhiều đợt nhưng có chung 1 kẻ thù. Kẻ thù cướp Miền Nam, giam tù dân quân cán chính VNCH và đẩy hàng triệu người vào tử lộ... Những người tới Mỹ ngày đêm âm thầm gầy dựng "những gì kẻ thù tiêu diệt, chúng ta dựng lại", trong đó "tái phục thủ đô VNCH là quan trọng nhất". Và, Little Saigon sau gần nửa thế kỷ chìm nổi, cuối cùng đã thành hình... Đây là cuốn sách LỊCH SỬ LITTLE SAIGON...
Tiếp đó ký giả cho biết nhân ngày kỷ niệm này, Thư Viện có trình bày một số sách báo tài liệu quý hiếm hầu như không còn thấy ở đâu nữa. Đó là những số báo đầu tiên khi cộng đồng người Việt vừa bước chân đến miền đất tự do. Những số báo và những hình ảnh về lịch sử của Little Saigon mà trong đó có nhiều sự đánh phá để không hình thành được. Những tài liệu này sẽ giúp cho các thế hệ sau hiểu rõ thêm về cuộc di tản vĩ đại của dân tộc Việt đã không chấp nhận chế độ cộng sản như thế nào. Tiếp đó, ký giả Du Miên có nhắc đến những câu hỏi của nhiều người, rằng, nay có thông tin mạng rộng khắp và tiện lợi nhanh chóng, có còn cần đến các thư viện nữa không, thì ký giả khẳng định ngay rằng: “Mạng lưới tin trên Internet chỉ là tin, không là tài liệu di vật cụ thể như sự lưu giữ, bảo trì những tài liệu hiếm quí, những di vật minh chứng cho những sự kiện lịch sử. Thế nên thư viện vẫn còn và sẽ còn mãi trong cuộc sống của nhân loại.”
Từ hồi ông Hương Giáo còn lui tới ngày ngày ở đây (thơ viện), cô bác cho cái chi thuộc “của quý” thì ổng biểu tui: “chú ghi chép và nhớ “điển” của từng món vật.” ... Biểu ghi thì tui “dạ, em ghi” nhưng làm thinh hổng nói như hồi xưa cha anh sai hay dạy cái gì mình cũng dạ nhưng mươi cái chưa chắc có 1 cái nhập tâm hay thực hành. Vả lại vẫn ỷ y vì việc nhớ mớ cái “điển” thì… nghĩ rằng có ổng (thầy giáo làng) là cuốn tự điển sống, mắc mớ chi bận tâm nhớ hết! Mà muốn nhớ thì cái đầu đần chưa chắc nhớ hết được. Nào ngờ tới lúc ổng (Hương Giáo) bỏ Lí-tô Sài Gòn, bỏ thơ viện mà ổng là nhóm sáng lập, để dời tuốt qua bên Houston Texas. Và sau đó ổng còn đi xa hơn, tuốt luốt cõi âm ti: vĩnh viễn không ở lại, chẳng quay về, vĩnh viễn tắt tiếng cười, thôi nhả khói thuốc, hụp tách trà thơm.
Tại hội trường Thư Viện Việt Nam 10872 Westminster Avenue, #214 Garden Grove, CA 92843 (714) 657-5500 vào lúc 11 giờ sáng Chủ Nhật ngày 13 tháng 8 năm 2023 Nhà báo Ngọc Hà và Du Miên đã tổ chức buổi ra mắt sách “Việt Eden Địa Đàng Hạ Giới.” Hàng trăm quan khách, quý vị nhân sĩ, Luật Sư, Bác Sĩ, các vị lãnh đạo cộng đồng, hội đoàn, đoàn thể chính trị, các cơ quan truyền thông và đồng hương tham dự, hội trường thư viện không còn chỗ ngồi, một số đồng hương thân hữu phải đứng bên ngoài hành lang.
Ký giả Du Miên trả lời vào năm 1980, sau khi hỏi ý tất cả mọi chủ tiệm (khoảng vài ba chục tiệm), ai nấy cũng muốn hình thành một cái gì đó để nương tựa, bênh vực nhau, tôi bàn với các anh chị trong tòa soạn báo Sàigòn gồm các anh Vũ Tài Lục, Tống Hoằng, Lê Khắc Thuận, Trần Đức Tuấn và cô Dạ Yến, mở chiến dịch vận động hình thành khu phố Việt Nam. Tôi khởi sự vẽ bản đồ khu phố và gọi đó là “Phố Sàigòn”. Bản đồ này đăng nhiều lần trên tuần báo Sàigòn vào cuối năm 1980...
Khi nối kết khúc “Thành phố đổi tên, nhắc người còn nợ” tới các trang 71, 72, 73, 74… của Chương I: “…Khi nhìn thấy bản đồ đăng trên tuần báo Sài Gòn, ký giả Rosa Kwong phỏng vấn tác giả bản đồ (là chủ bút tuần báo Sài Gòn): “- Tại sao gọi là phố mới, phố Sài Gòn? “- Ở quê nhà Việt Nam, Cộng Sản đổi tên thủ đô Sài Gòn của chúng tôi rồi. Chúng tôi lập khu phố nhỏ, phố mới gọi là phố Sài Gòn. Sài Gòn thủ đô nước tôi lớn và hoa lệ, là “Hòn ngọc Viễn Đông”… Còn ở Westminster đây, bất quá, chúng tôi gom nhau lại thành 1 khu phố nhỏ, một góc chút xíu của Sài Gòn hoa lệ ngày xưa… “Cô Ký giả gốc Hồng Kông lặng yên một lúc khi thấy Chủ bút báo Sài Gòn rơm rớm nước mắt khi nhắc đến Sài Gòn. Cô gật đầu chào mọi người. Vài ngày sau, trong bài tường thuật ngày 1 tháng 2, 1981 cô gọi khu phố bé tí, phố Sài Gòn của tuần báo Sài Gòn nói trên là “Little bit of Saigon”. Sau này người ta lượt bỏ bớt 2 chữ “bit of”, còn lại “Little Saigon”...
VUI LÒNG CLICK VÀO TỰA ĐỂ ĐỌC TRỌN BÀI Danh xưng Little Saigon có từ ngày ngày 1 tháng 2 năm 1981 nhưng phải trải qua thời gian dài vận động để hợp thức hóa tên gọi trong chính quyền địa phương và tiểu bang. Theo bản đồ của nhật báo Register, khu vực Little Saigon thuộc thành phố Westminster và vài con đường của thành phố lân cận, Bắc có Garden Grove, Đông có Santa Anna, Nam có Fountain Valley… Điểm đặc biệt trong quyển sách nầy với nhiều hình ảnh và mỗi tấm hình được chú thích rõ ràng...
Ký giả Du Miên, Ngọc Hà sống tại miền Nam California, và ông là một trong những người góp phần sáng lập ra Little Saigon. Trải qua gần nửa thế kỷ trên mảnh đất này, hai ông bà đã chứng kiến rất nhiều đổi thay, từ khu đất trồng trái dâu hoang sơ biến thành khu phố thị sầm uất, từ chỗ bị chính quyền Hoa Kỳ không muốn người Việt tỵ nạn tập trung đông đảo một chỗ, người Mỹ kỳ thị không muốn thấy những bảng hiệu toàn chữ Việt, không muốn người Việt tổ chức buổi lễ kỷ niệm ngày Quân Lực 19 tháng 6 (Nghị Viên Frank Fry sau là Thị Trưởng Westminster), thậm chí đòi trục xuất người Việt khỏi Quận Cam (Giám Sát Viên Harriett Wieder).
Nhóm thiện nguyện viên đang nỗ lực học hỏi các hướng dẫn từ nhiều nguồn, nhiều cá nhân thương yêu, để thực hiện việc đưa hết tất cả SÁCH QUÝ mà Thư Viện Việt Nam đã gom-xin-mót suốt phần tư thế kỷ qua. Trang mạng "Love Little Saigon" (I Love Little Saigon) cần thời gian để hoàn chỉnh. Rất mong được thông cảm.
VHV FOUNDATION - THƯ VIỆN VIỆT NAM
VIETNAMESE CULTURAL CENTER

10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843
E-mail: info@lovelittlesaigon.org