BÀI MỚI NHẤT
07 Tháng Mười Một 2025(Xem: 122)
Trong suốt hơn 100 năm nay, người Việt của ba, bốn thế hệ đều quen thuộc với câu ca dao thật mộc mạc, phổ thông đã thấm sâu vào hồn bao người. Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Điểm đặc biệt là hai câu ca dao này không những đã vượt thời gian mà còn vượt cả không gian, đi đến miền nào trên đất Việt đều được người miền ấy uyển chuyển thay đổi đôi ba địa danh để địa phương hóa hai câu nghe thật thỏa nguyện. Từ miền Bắc nghe văng vẳng nơi chốn Hà Nội: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Đến miền Trung trên dòng sông Hương lại nghe rõ câu ca: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương. Ấy thế mà vào đến trong Nam cũng chừng đó “gió đưa”, “tiếng chuông”, “canh gà” mà lại biến hóa thành: Gió đưa tàu chuối la đà, Tiếng chuông Xá Lợi, canh gà Thủ Thiêm. (trích từ bài: Thọ Xương hay Thọ Cương -Thái Văn Kiểm, 2001) ...
01 Tháng Tư 2025(Xem: 2032)
Vào lúc 11 giớ sáng Chủ nhựt 30 tháng 3 năm 2025 phòng sinh hoạt của Thư Viện Việt Nam góc đường Westminster và Euclid đã không còn chỗ trống. Trên 250 quan khách và đồng hương đã đến đây - như thông lệ hàng năm - để nhận 1 cuốn sách bằng tiếng Anh có nội dung độc đáo: Viết về lịch sử hình thành Little Saigon. Cuốn sách dày 310 trang, ghi lại diễn tiến từ 1975 đến 2024 tất cả những sinh hoạt liên quan đến sự hình thành của Little Saigon. Tác giả là 2 nhà báo sống tại Little Saigon ngay từ lúc khởi đầu, đã sưu tập tài liệu và nhất là hình ảnh để đưa vào tác phẩm. Trong buổi ra mắt sách, tác giả công phu mời các nhân vật làm business hay sinh hoạt tại Little Saigon từ lúc khởi đầu đền trực tiếp nói chuyện với quan khách...
25 Tháng Ba 2025(Xem: 1952)
Nạn đói năm Ất Dậu 1945 để lại những nỗi đau đớn tột độ cho những người sống sót và ấn tượng kinh hoàng cho những người đã chứng kiến. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại xảy ra một biến cố thảm thương như thế.Hoàn cảnh và những nguyên nhân nào đã đưa đến nạn đói năm Ất Dậu? Mời độc giả tìm đọc trong bài viết này với nhiều chi tiết gây xúc động mạnh mặc dù sự việc đã xảy ra 80 năm trước đây.
12 Tháng Giêng 2025(Xem: 5693)
In the final days of May, 1975, it was a time of book persecution for the people of South Vietnam. As soon as the Communists seized Saigon, they hastily ordered the confiscation of all South Vietnamese books and newspapers, which they labeled as "decadent and reactionary culture."
12 Tháng Hai 2024(Xem: 2574)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
18 Tháng Giêng 2024(Xem: 3670)
Đài VNATV thực hiện 2 videos về buổi lễ tưởng niệm Nhà văn, Nhà báo, Nhà giáo Trần Lam Giang tại Phòng Sinh Hoạt Thư Viện Việt Nam Little Saigon (Vietnamese Cultural Center - VHV Foundation), 10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843. Tổ chức trong nội bộ và một số bạn học cùng thời với người quá cố.
12 Tháng Giêng 2024(Xem: 2415)
Trong cuộc nội chiến, hai kẻ địch văn hóa là : - Văn hóa cổ truyền hay văn hóa Sài Gòn thì mọi người dân Việt ở hải ngoại hay quốc nội đều hay biết vì hiện đang sống với , - Văn hóa XHCN thì ở miền Nam ít người biết đến vì 2 lý do sau : 1) Cuộc sống ngắn ngủi 10 năm (1975-1986) của văn hóa XHCN tại miền Nam, 2) Hầu như không có tác giả nào cả quốc gia lẫn cộng sản viết về văn hóa XHCN và cuộc nội chiến văn hóa Bắc Nam. Đó là lý do chúng tôi dành phần 1 và phần 2 cho văn hóa XHCN và phần 3 cho cuộc nội chiến văn hóa.
12 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 2882)
Tác giả ghi trong phần « Tự Luận về Bản In tại hải ngoại » : « Ba mươi năm chiến tranh (1945-1975), một cuộc chiến mà người Việt hầu như đóng vai « được mướn » để đánh lẫn nhau, là ba mươi năm tàn phá triệt để như thể một cuộc đổi đời. Ba mươi năm chiến tranh đã qua. Hơn mười năm cuồng say chiến thắng kéo theo hận thù, tù đày, cũng đã qua. « Thua » hay « Thắng » thì cả hai đều tỉnh giấc trước điêu tàn của đất nước. Một thời kỳ đại loạn chưa từng thấy trong lịch sử của dân tộc Việt. Đại loan cho đời sống vật chất. Vô cùng quan trọng nữa là đại loạn cho nếp sống tinh thần, nền móng của tổ chức xã hội. Hậu quả là trước mắt chúng ta hình ảnh một xã hội bị phân hóa và băng hoại cực độ, khiến cho đại chúng không có được một niềm tin để sống, để hành động trong tinh thần hướng thượng với ý thức giúp vào phúc lợi lâu dài của dân tộc… »
04 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 1832)
Những sách Giáo khoa do nhiều tác giả biên soạn theo đúng chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa này được đồng bào tị nạn Việt Nam mang theo sau biến cố tan nhà nát cửa mất cả giang sơn 30 tháng 4 năm 1975 và tặng cho Thư Viện Việt Nam Little Saigon cất giữ. Ngoài số sá ch này, trang lovelittlesaigon.org của Thư Viện Việt Nam còn xử dụng các bản quét (scan) của Giáo sư HUỲNH CHIẾU ĐẲNG, chủ quán SÁCH VEN ĐƯỜNG và một số nguồn cùng mục tiêu khác. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhận sách của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa để đưa lên website phổ biến và lưu giữ.
28 Tháng Mười Một 2023(Xem: 2059)
“Năm Quý Mùi (1943) là năm trăng mờ gió thảm, tiếng chiến tranh inh ỏi khắp hoàn cầu, toàn xứ Đông Dương bị quân Nhật Bản tràn vào, họa chiến tranh mỗi ngày một lan rộng. Dân Việt Nam bị đói kém đau khổ đủ mọi đường, lại căm tức về nỗi nước nhà suy nhược phải bị đè nén dưới cuộc bảo hộ trong sáu bẩy mươi năm, cho nên ai cũng muốn nhân cơ hội ấy mà gây lại nền độc lập đã mong mỏi từ bao lâu. Tôi là một người nước Việt Nam, lẽ nào lòng tôi lại không rung động theo với dịp rung động của những người ái quốc trong nước? Nhưng vì hoàn cảnh khó khăn, lòng người ly tán, nhiều người lại muốn lợi dụng cái tiếng ái quốc để làm cái mối tư lợi cho mình, vì vậy mà tôi chán nản không dự vào đảng phái nào cả, mà cũng không hành động về phương diện chính trị. Ngoài những lúc làm những công việc hàng ngày phải làm, khi rỗi rãi gặp những bạn thân, nói đến chuyện thiên hạ sự và việc nuớc nhà, thì tôi cũng nói chuyện phiếm và mong cho nước nhà chóng được giải phóng…”

CHUYỆN ĐỨC BÀ CỐ QUẢN

02 Tháng Ba 20249:48 SA(Xem: 8087)
pic đền bà cố quản
Đền thờ Đức Bà Cổ Quản Nguyễn Thị Thạnh
(Hình Facebook - https://www.facebook.com/DenThoDucCoQuanTranVanThanh)

CHUYỆN ĐỨC BÀ CỐ QUẢN
NGÔ PHỤNG ANH
(Bút hiệu khác của Nhà văn Nguyễn Đức Lập)

Ngày 19 tháng 5 năm Đinh Mão (1867), quân Pháp bất thần tấn công, chiếm lấy tỉnh Vĩnh Long và vài ngày sau, hai tỉnh An Giang và Hà Tiên cũng bị giặc chiếm. Thế là toàn cõi Lục tỉnh Nam kỳ đều lọt vào tay giặc.

Kể từ khi quân Pháp chiếm Sàigòn, năm 1859, và sau đó, tỏa ra chiếm luôn Biên Hòa và Định Tường, ép triều đình nhà Nguyễn ký hòa ước Nhâm Tuất (1862), nhường đứt ba tỉnh miền Đông cho chúng, không ngày nào là không có những anh hùng nghĩa sĩ nổi lên đánh Pháp. Ông cử nhơn Đỗ Trình Thoại nổi lên ở Tân Hòa, ông cử nhơn Phan Văn Đạt ở Tân An, ông Trương Định ở Gò Công, ông Nguyễn Trung Trực ở Tân An, rồi về Rạch Giá, ông thủ khoa Nguyễn Hữu Huân ở Mỹ Tho, ông Thiên Hộ Võ Duy Dương ở Đồng Tháp Mười...

Các nhà nho như thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, ông tú tài Nguyễn Đình Chiểu, ông cử nhơn Phan Văn Trị, ông cử nhơn Phan Văn Đạt, ông cai tổng Lê Quang Chiểu dùng văn chương chống Pháp và kích động lòng yêu nước của dân chúng.

Một cuộc khởi nghĩa quan trọng, nhưng ít được sử sách nhắc tới là cuộc khởi nghĩa của ông Trần Văn Thành ở Bảy Thưa, thuộc Châu Đốc.

Ông Trần Văn Thành, quê ở Cồn Nhỏ, Châu Đốc, xuất thân trong gia đình khá giả, tài kiêm văn võ. Ông đã từng đứng ra mộ tráng đinh, lập thành một đạo quân để chống lại người Miên qua cướp lúa dân trong vùng, nên được vua Thiệu Trị phong làm Chánh Quản Cơ. Đến đời vua Tự Đức, ông vẫn giữ chức vụ nầy.

Bởi ông có công dẹp giặc cướp, lại trượng nghĩa khinh tài, hay giúp đỡ những người nghèo đói, hoạn nạn, và bởi ông làm chức Quản Cơ của triều đình, nên dân chúng trong vùng gọi ông một cách kính cẩn là Đức Cố Quản.

Ông Trần Văn Thành lại là đại đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An, thuộc phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông đã được Đức Phật Thầy trao cho một cây cờ, một cái ấn và một tấm áo màu dà, để dùng trong công cuộc đền nghĩa núi sông.

pic duc cố quản 2
Khu di tích Đức Quản Cơ Trần Văn Thành
(Hình Facebook - https://www.facebook.com/DenThoDucCoQuanTranVanThanh)


Ông đã kết hôn với bà Nguyễn Thị Thạnh, người ở rạch Sa Nhiên, Sa Đéc. Theo người cố cựu nói lại, vóc người bà rất nhỏ bé, nhưng võ nghệ cao cường, chữ nghĩa cũng rất rành.

Vì ông được gọi là Đức Cố Quản, bà cũng được gọi là Đức Bà Cố Quản.

Sau khi quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên, các quan chức của nhà Nguyễn đã theo lịnh triều đình rút về Bình Thuận và Huế để chờ nhận chức vụ khác. Ông ở lại miền Nam, lo tổ chức đánh Pháp, giành lại đất nước.

Ông đưa quân về lập chiến khu ở rừng Bảy Thưa, nằm giữa Long Xuyên và Châu Đốc. Ông phát hịch, chiêu mộ thêm nghĩa binh, mở mang đồn trại, chế tạo võ khí.

Một thuộc hạ của ông là Đề Đốc Văn, đã thiết lập 5 lò đúc, để vừa đúc súng, vừa chế tạo đạn. Chỉ tiếc rằng súng đúc được, nạp đạn ở đằng miệng, có tầm bắn gần, không thể nào sánh bằng súng của giặc Pháp.

pic đức cố quản a
Đền thờ Đức Cố Quản Trần Văn Thành
(Hình Facebook - https://www.facebook.com/DenThoDucCoQuanTranVanThanh)

Khi lực lượng bắt đầu mạnh, ông Trần Văn Thành đã phất cờ khởi nghĩa, đặt tên cho đạo quân do ông lãnh đạo là đạo quân Gia Nghị.

Trong mọi cuộc sinh hoạt của đạo binh Gia Nghị, Đức Bà Cố Quản luôn luôn đóng một vai trò quan trọng. Chính bà đã chỉ huy đào một con kinh nối liền rạch Cái Dầu vào chiến khu để vận chuyển lương thực. Con kinh nầy, được gọi là kinh Ông-Bà, đến ngày nay vẫn còn được xử dụng.

Để có đủ lương thực cho nghĩa binh, Đức Bà Cố Quản đã đứng ra kêu gọi sự yểm trợ của các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương đang ở rải rác khắp nơi vùng Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên. Lương thực thu góp được, bà đã dùng con kinh đào, đưa vào chiến khu.

Bà cũng cho đào một hồ thật lớn để lấy nước ngọt và nuôi cá. Để có vải vóc may áo quần cho nghĩa binh, bà đã tổ chức trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải.

Có thể nói rằng, trong khi Đức Cố Quản lo tổ chức quân đội, huấn luyện nghĩa binh, Đức Bà đã đảm nhận công việc hậu cần, lo tiếp tế lương thực, quân nhu cho nghĩa binh.

Nghe tin tức những hoạt động của đạo binh Gia Nghị, quân Pháp đã nhờ một người quen biết trước với Đức Cố Quản, lặn lội vào Bảy Thưa để dụ hàng. Nhưng Đức Cố Quản đã trả lời rằng:

- Ta thà cùng quân sĩ bỏ xác nơi rừng nầy, chớ không chịu ra làm quan cho Tây đâu. Ông hãy trở về nói lại với chúng nó như thế và từ nay về sau, ông cũng đừng lãnh đi những việc nguy hiểm như vậy nữa. Tình anh em không thể làm lờn phép công hoài được.


Ông còn đọc thơ:

- Thà thua, xuống láng xuống bưng

Không thà đầu giặc, lỗi chưng quân thần

Sau đó, Đức Cố Quản đã chỉ huy đạo quân Gia Nghị, tấn công các đồn bót của quân Pháp ở khắp nơi. Ngày nay, những người cố cựu còn kể lại các trận đánh hào hùng của đạo binh Gia Nghị ở Tri Tôn, ở Chắc Cà Đao và các trận vây khốn đồn Tịnh Biên, đồn Cây Mít.

Vào tháng 2 năm 1873, quân Pháp đã huy động cả hải, lục quân, có tàu sắt, súng đồng yểm trợ, từ nhiều mặt tấn công vào Bảy Thưa, theo sự dẫn đường của Trần Bá Lộc.

Nghĩa quân đã chống cự nhiều ngày, đến cạn cả đạn dược.

Đến ngày 21 tháng 2 năm 1873, nghĩa quân phải lui vào cố thủ ở đồn Gia Trung, là tổng hành dinh của đạo quân Gia Nghị. Nhưng, cuối cùng, đồn nầy cũng bị thất thủ. Đức Cố Quản bị đại bác bắn tan xác khi ông đang chỉ huy nghĩa quân chiến đấu ở mặt thành.

Trong trận nầy, người con út của Đức Cố Quản là Trần Văn Chái, mười bảy tuổi, bị giặc bắt trong lúc đang chiến đấu.

Đức Bà Cố Quản được người con lớn là cậu hai Trần Văn Nhu đưa đi trốn vào rừng sâu ở Láng Linh.

Cậu Trần Văn Chái bị Pháp đưa về giam ở nhà ngục để điều tra.

Tới đây mới thấy cái gan và lòng nghĩa khí của Đức Bà Cố Quản.

Cuộc kháng chiến thất bại, nghĩa binh tan rã, chồng bị chết, con bị bắt, nhưng bà vẫn cố nén nỗi đau đớn, để giữ tiết tháo và đại nghĩa. Bà đã viết một bức thơ, cuốn vào một con dao nhỏ, dấu trong ruột một đòn bánh tét, nhờ người đem tới nhà giam An Giang, trao cho con trai út.

Bức thơ ấy có nội dung như sau:

“Con đã bị giặc bắt, ấy là gần xong bổn phận của con. Nếu kẻ thù cứ đem lợi danh mà cám dỗ, con liệu không thoát được mà về, mẹ muốn con hãy tự dùng dao nầy mà quyết định đời con, để bảo tồn danh tiết cả nhà ta, lâu nay đã hy sinh vì đất nước...”


Vài ngày sau, cậu Trần Văn Chái đã dùng con dao của mẹ gởi vào, tự tử chết trong nhà ngục An Giang, đúng vào ngày sinh nhựt thứ 18 của cậu.

Quân Pháp tung người ra truy lùng thân nhân của Đức Cố Quản. Ông Hai Trần Văn Nhu phải giả làm người Tàu, trốn lên Nam Vang, sống lẩn lộn trong một xóm Hoa kiều trong nhiều năm.

Đức Bà Cố Quản, được sự giúp đỡ tận tình của các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương, đã kéo dài cuộc đời, cho đến ngày cuối cùng tại các trại ruộng của Giáo Phái nầy...

Trong lịch sử đông tây cổ kim, người ta thấy có vài trường hợp người mẹ hy sinh mạng sống để cho con có cơ hội làm nên nghiệp lớn, như bà mẹ ông Phạm Ngũ Lão, đời nhà Trần, đã tự tử để cho con đầu quân cứu nước, lập nghiệp hiển hách với đời. Hay, như ở bên Tàu, bà mẹ ông Vương Lăng đã tự tử để cho con yên lòng mà theo phò Hán Cao Tổ.

Nhưng, mẹ mà đưa dao, biểu con tự tử để bảo toàn danh tiết của gia đình, giữ đại nghĩa của dân tộc, thì có lẽ, chỉ có trường hợp của Đức Bà Cố Quản Nguyễn Thị Thạnh.

Thế mới biết, đạo sống của dân tộc Việt Nam, về ơn ông bà, nợ đất nước, nghĩa đồng bào, đã ăn sâu trong lòng của Đức Bà Cố Quản.

Chính nhờ vào đạo sống nầy mà dân tộc Việt Nam còn tồn tại đến mãi ngày nay, trong khi các quốc gia chung quanh Trung Hoa, cũng như các dân tộc trong dòng Bách Việt đều bị tiêu diệt hết...

 

NGÔ PHỤNG ANH
(Trích trong Kỷ Yếu Thư Viện Việt Nam năm 2001)



ĐỌC THÊM:

CON KHỈ TỀ THIÊN

ĐẤT SÀI GÒN NAM THANH NỮ TÚ

DỦ HỌC DỦ NGU









Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Tên nước ta một thời là “Xích Quỷ”, có người phịa nghĩa là “quỷ đỏ” (cho hợp với quỷ đỏ cộng sản đang cai trị nước ta?); cũng có người bịa ra cho rằng vua nhà Thanh bên Tàu “ban” cho tên nước ta là “Việt Nam” (trong khi bọn Tàu của chúng chưa từng có quốc hiệu mãi cho đến năm 1911, cách mạng Tân Hợi thành công thì nước Tàu mới có tên nước là Trung Hoa Dân Quốc). Nhà văn, nhà giáo Trần Lam Giang cho chúng ta biết rõ ý nghĩa của quốc hiệu mà tổ tiên chúng ta chọn.
Bài này được trích từ cuốn Kỷ Yếu Thư Viện Việt Nam năm 2000 (một năm sau ngày thành lập). Bị đòn, bị học 1 bài học để đời, nhưng với tuổi trẻ háo thắng, tôi không bao giờ tin rằng “càng học càng ngu”. Tin làm sao được khi con đường học vấn cứ thẳng tắp, lấy hết văn bằng này tới văn bằng kia và ra trường với 1 nghề vững chắc, trong khi mặt còn non choẹt, còn búng ra sữa, phải xin phép cha để râu mép, cho được gìa dặn thêm 1 chút (phải xin phép để râu vì cha tôi quan niệm rằng: “Cha chưa chết, con không được để râu”). Cho đến khi lăn lộn ngoài đời, tôi mới biết rằng có rất nhiều điều mà sách vở và học đường không hề dạy. Học đường học chợ, học trên báo chí, nghe lóm những bậc trưởng thượng, thấy rằng kiến thức của mình “thiên bất đáo, địa bất chí”, càng học càng thấy ngu...
Người Việt từ thế kỷ thứ 19 trở về trước thường tin rằng bệnh tật là do giới “vô hình” hoặc “siêu hình” gây ra. Người ta tin rằng bệnh tật sinh ra vì chạm vía, tà ma yêu quái, thần thánh quở phạt, gặp năm sung tháng hạn, động chạm mồ mả, không đúng phong thủy, bị trù ếm, bị bỏ bùa, v.v... Cũng vì nghĩ như thế cho nên các cách chữa bệnh tùy theo trường hợp mà người ta tìm cách trấn áp. Ví dụ trẻ sơ sinh có người dữ vía tới thăm mà khóc không ngừng, người nhà phải đốt vía, dùng lá nón mê hoặc cây chổi cũ vừa đốt vừa đọc câu chú đuổi vía dữ. Người mẹ mới sinh con mà bị băng huyết cũng cho là vì gặp vía dữ. Trường hợp hay thấy là dùng tàn hương nước thải cho người bệnh uống. Những người bị bệnh đi nhờ các ông đồng bà cốt cầu xin thần linh cấp bùa để đeo hoặc cho bùa để người bệnh đốt hòa với nước thải rồi uống. Nếu cho rằng bệnh vì tà ma yêu quái thì người mình lo sửa lễ cúng vàng mã, hương hoa, xôi rượu, hoặc mời thầy trừ tà ma trị quỷ…
Thư Viện Việt Nam đã có dịp giới thiệu đến quý vị nhiều bài biên khảo về lịch sử, văn hóa nhưng lần này, chúng tôi hân hạnh giới thiệu bài biên khảo công phu của tác giả NgôThị Quý Linh về một đề tài hiếm khi được khảo luận kỹ lưỡng và sâu sắc: “Sự quan trọng của Luân Lý trong đời sống xã hội”. Bài viết dài 108 trang với những trích dẫn tư tưởng của các bậc hiền triết Đông Tây kim cổ trên thế giới và của nhiều danh sĩ đất Việt theo thứ tự thời gian. Bài còn có những hình ảnh sinh hoạt hiếm quý của người Việt thời đầu thế kỷ thứ 20, những hình ảnh thân thương của nền giáo dục nhân bản thời thập niên 1950-1970…. Hơn bao giờ hết, vào thời buổi này, dù ở xứ sở nào, xã hội nào chăng nữa, Luân Lý trong đời sống xã hội là một vấn nạn lớn rất cần phải quan tâm. Xin mời quý vị từ tốn cùng lật từng trang đọc…
Hân hạnh giới thiệu Biên khảo “Tên Họ Hai Bà Trưng” của tác giả Đỗ Hoàng Ý. “… Thật đáng quan tâm là đến nay đã gần hai ngàn năm sau thời Hai Bà Trưng, chúng ta vẫn chưa biết được chắc chắn điều nào thực, điều nào hư trong số những điều được ghi chép trong các thần tích, ngọc phả, trong các sử sách xưa về những cuộc khởi nghĩa oai hùng đó. Ngay cả tên họ của Hai Bà đến nay hậu sinh chúng ta vẫn không biết người Việt cổ phát âm như thế nào? Họ của Hai Bà là Lạc, là Trưng, hay là không có họ?... Quý bạn có thể tìm đọc thêm “Khảo Luận Về Cổ Thư Tàu”...
1- Đầu tiên là đại học Cambridge, Hoa Kỳ, vào năm 1986, ghi thuật chi tiết việc kiến trúc Tử Cấm Thành vào thời Minh Thành Tổ, do kiến trúc sư Nguyễn An, người Việt Nam đảm trách. 2- Tháng 9 năm 2008, Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam tại Little Saigon, California, cho xuất bản tác phẩm Việt Nam: Suối Nguồn Văn Minh Phương Đông của tác giả Du Miên. Đề tài người Việt Nam vẽ kiểu và xây Tử Cấm Thành Bắc Kinh chiếm ¼ nội dung tác phẩm. 3-Tháng 11 năm 2008, đài truyền hình ZDF Dokukanal (Germany) thực hiện bộ phim Tử Cấm Thành Bắc Kinh : Bản Di Chúc Của Một Bạo Chúa, một lần nữa làm sáng tỏ thêm về tác giả công trình kiến trúc đồ sộ bậc nhất thế giới này : Nguyễn An, một tù binh Việt Nam. Bộ phim do đài truyền hình Đức thực hiện; được phụ đề Việt ngữ vì nội dung của cuốn phim nhằm ca ngợi công trình kiến trúc tuyệt vời của một người Việt Nam, mà người Tàu "Cầm Nhầm" hàng mấy trăm năm qua, nay đã bị thế giới phanh phui...
lovelittlesaigon.org Thư Viện Việt Nam hân hạnh giới thiệu bài biên khảo mới nhất (2023) của tác giả ĐỖ HOÀNG Ý: “Khảo luận tổng quát một số ghi chép trong cổ thư Tàu liên quan đến lịch sử Việt thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa”. Tác giả đã dẫn nhiều cổ sử, bản đồ tổng hợp từ nhiều nguồn, chứng minh những gì sử của nước ta và chính những sử sách xưa nhất của người Tàu cũng đều “ghi lại” sau khi “nghe dân gian lưu truyền” từ mấy trăm năm hay cả ngàn năm sau… Mời quý vị cùng đọc…
Theo thầy Hương Giáo Nguyễn Đức Lập và anh Du Miên kể thì, trước khi nhóm sáng lập truyền “hịch thu gom” sách và đồ quý lập Thơ Dziện, một hôm Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ gọi Du Miên bảo ghé nhà nhận bàn máy đánh chữ. Hỏi thêm thì được biết bàn máy đánh chữ có dấu Việt Nam. “Tôi cho cậu vì cậu còn làm báo.” Bàn máy này theo chân Thiếu tướng Kỳ tị nạn 1975. Ông vẫn giữ trong nhà tuy rằng chưa bao giờ dùng đến. Khi nhà thơ Hoàng Anh Tuấn thấy chiếc máy đánh chữ này, ngỏ ý muốn “mượn” để đánh bài vì anh quen viết bài bằng máy đánh chữ. “Bấy giờ vợ chồng Du Miên- Ngọc Hà xuất bản tờ Trường Sơn, anh Hoàng Anh Tuấn ngày nào cũng có mặt tại tòa soạn và dùng bàn máy chữ này để làm thơ hay viết bài (đầu thập niên 1980). Lúc bấy giờ (anh Lập giữ vai trò Ttk Tòa soạn), ngoài Hoàng Anh Tuấn còn có Lê Tử Hùng, Đinh Hiển (Họa sĩ Hĩm), Đông Duy, Nghi Thụy...
Cho tới bây giờ, theo chỗ tui (CO KHANH) biết, chỉ mỉnh Thơ Dziện Việt Nam ở Lí-tô Sài Gòn có bức tượng bằng đồng này. Xuất xứ của bức tượng, hành trình lưu lạc hay "tị nạn" Việt Cộng của bức tượng khó mà rõ ràng. Người tặng tượng "gốc" đã ra người thiên cổ, người tặng thứ nhì (cho TVVN) vì tôn trọng "nỗi riêng" của anh mình nên quyêt không hé răng. Ban sáng lập Thơ Dziện lại tôn trọng người hảo tâm tặng đồ quý nên cuối cùng SiteAdmin ra lệnh, Co Khanh tui không thể không tuân hành nên đành phải rị mọ tìm tòi ghi ghi chép chép. Nếu quý huynh đài tỷ muội nào biết rõ hơn điển của "cô Ba" hay "tượng đồng Cô Ba" làm ơn cho tui góp ý. Tôi nguyện cúng gà xôi tới tấp, dái lạy tôn dzinh....
Quyển sách 330 trang đúc kết từ những dữ liệu lịch sử với nhiều hình ảnh chi tiết về cộng đồng người Việt ở Little Saigon, Nam California từ năm 1975 mà chính tác giả là nhân chứng trong hơn 48 năm sinh sống tại nơi này. - DU MIÊN, Nhà báo/Đồng tác giả sách: "Một số những người năm 1975 ở trong vùng này đã chết rồi, và chúng tôi đã trải qua nhiều cái khó khăn về sức khoẻ, chưa biết là mình sống và mình chết ngày nào, và sự ra đi của một vài người bạn có công lớn nhất với cái sự hình thành của Little Saigon là mục sư tiến sĩ Nguyễn Xuân Đức của nhà thờ Saint Anselm tin lành, và Đốc sư Phùng Minh Tiến mới vừa mất một năm, hai năm vừa qua, nó thôi thúc chúng tôi là nếu chúng ta không có viết lại thì các em các cháu sau này sẽ làm lạc hay là nó không biết được cái nguồn gốc thật sự của nó." Ông Du Miên là một nhà báo từ trước năm 1975. Ông cũng là một trong bốn thành viên sáng lập ra tờ báo tiếng Việt xuất bản đầu tiên ở Mỹ có tên Hồn Việt, vào tháng 11 năm 1975...
VHV FOUNDATION - THƯ VIỆN VIỆT NAM
VIETNAMESE CULTURAL CENTER

10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843
E-mail: info@lovelittlesaigon.org