BÀI MỚI NHẤT
01 Tháng Tám 2025(Xem: 397)
Dựa theo sắc lệnh năm 1887, năm 1891 và năm 1911, tổng-thống Pháp trao quyền hành chánh Đông-Dương cho một viên toàn-quyền. Toàn-quyền là “người thụ nhiệm những quyền hành của nền Cộng-hòa” tại Đông-Dương gồm có thuộc-địa Nam-kỳ (Cochinchine), các xứ bảo-hộ Trung-kỳ (Annam), Bắckỳ (Tonkin), Căm-Bốt (Cambodge), Ai-Lao (Laos), và lãnh thổ Quảng-Châu-Văn (Kouang-Tchéou-Wan). Toàn-quyền có quyền kiểm soát mọi công vụ hành chánh tại Đông-Dương, bổ nhiệm các công chức, phân phối nhân viên đến mỗi xứ tùy theo nhu cầu, hoặc trao quyền tổ chức và bổ nhiệm cho các viên chức hành chánh địa phương.
09 Tháng Tư 2025(Xem: 805)
Chương Trình Văn Hóa Nhân Bản Lạc Việt ghi lại buổi Lễ Mừng Thư Viện Viêt Nam 26 Tuổi cùng Giới Thiệu Sách Lich Sử Little Saigon “Little Saigon Chronicles” được tổ chức vào trưa Chủ Nhật ngày 30 tháng 3 năm 2025 tại Phòng sinh hoạt Thư Viện Việt Nam, 10872 Westminster Ave, Suite 214-215, thuộc thành phố Garden Grove, miền Nam California, Hoa Kỳ.
09 Tháng Tư 2025(Xem: 1060)
Vào lúc 11 giờ sáng Chủ Nhựt 30 tháng 3 năm 2025, khu thương mại Saigon Square ngay góc đường Westminster và Euclid chộn rộn hẳn lên. Nhiều quan khách và đồng bào đã tụ về để tham dự buổi tiếp tân mừng Thư Viện Việt Nam (The Vietnam Library of Little Saigon) 26 năm, đồng thời cũng là dịp để giới thiệu tác phẩm bằng Anh ngữ: Little Saigon Chronicles của 2 tác giả Ngọc Hà và Du Miên. Đây là Video của NGƯỜI VIỆT CALI TV phổ biến trên Youtube. Kính mời quý bạn theo dõi.
09 Tháng Tư 2025(Xem: 1021)
Chương Trình Văn Hóa Nhân Bản Lạc Việt ghi lại hình ảnh 2 nhân vật tiên phong trong việc xây dựng nên Little Saigon tại miền Nam California là ông Tám Được Gara Thiên Tạo và ông CNN Nguyễn Ngoc Chấn nhân dịp hai vị đến tham dự buổi Mừng Thư Viện Viêt Nam 26 Tuổi cùng Giới Thiệu Sách Lich Sử Little Saigon “Little Saigon Chronicles” được tổ chức vào trưa Chủ Nhật ngày 30 tháng 3 năm 2025 tại Phòng sinh hoạt Thư Viện Việt Nam, 10872 Westminster Ave, Suite 214-215, thuộc thành phố Garden Grove, miền Nam California, Hoa Kỳ...
08 Tháng Tư 2025(Xem: 1815)
Nhận được thiệp mời và điện thoại từ Ký Giả Du Miên thì Khánh Lan không thể vì một lý do gì mà không đến chung vui với tất cả các vị huynh trưởng đã có công trong việc thành lập thư viện Việt Nam đầu tiên tại quận Orange, California, tọa lạc trong khu vực của Little Sài Gòn. Mặc dù hôm ấy có đến 3 tổ chức trong cùng ngày, cùng giờ, thế mà khánh phòng của thư viện đã đón tiếp rất đông quan khách đến tham dự. Đó là một điều rất vui.Liên Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian cũng có mặt gồm: Phạm Gia Đại, Trần Mạnh Chi, Lưu Mạn Bổng & Khánh Lan, Giáo Sư Dương Ngọc Sum. Truyền thông báo chí gồm, các ký giả: Thanh Phong, Văn Lan, Thanh Huy, đài VNA, SBTN, LITTLE SAIGON TV....
08 Tháng Tư 2025(Xem: 1865)
Dân Biểu Liên Bang Derek Trần (Địa Hạt 45) cũng có mặt tại buổi kỷ niệm và trao tặng Thư Viện Việt Nam một bằng tưởng lục để vinh danh nơi lưu giữ cho cộng đồng Việt những tài liệu lịch sử quý giá. Thị Trưởng Chí Charlie Nguyễn và Nghị Viên Mark Nguyễn của Westminster cũng trao một bằng tưởng lục cho Thư Viện Việt Nam. Nghị Viên Cindy Ngọc Trần của Garden Grove, cũng là một cô giáo, trao bằng khen, cám ơn ký giả Du Miên và cô Ngọc Hà và nhiều người đã góp công sức để có nơi cho giới trẻ học hỏi thêm về văn hóa lịch sử Việt Nam...
08 Tháng Tư 2025(Xem: 1780)
Thư Viện Việt Nam (tọa lạc số 10872 Westminster Ave Suites # 214 & 215) do nhà báo Du Miên Giám Đốc điều hành, cùng Ông Bà BS. Võ Trọng Di một trong năm người đứng ra thành lập thư viện trong đó có: Nhạc Sĩ Trầm Tử Thiêng, Nhà Văn Nguyễn Đức Lập, Giáo Sư Trần Lam Giang (3 người nầy đã qua đời), đã tổ chức buổi tiếp tân kỷ niệm 26 năm thành lập vào lúc 11 giờ sáng Chủ Nhật ngày 29 tháng 3 năm 2025 tại phòng sinh hoạt Thư Viện Việt Nam, với hơn 200 nhân sĩ, trí thức, một số đại diện các hội đoàn, đoàn thể, cộng đồng, các cơ quan truyền thông và đồng hương thân hữu tham dự. Nhân dịp nầy Nhà Báo Du Miên và Ngọc Hà cũng phát hành tác phẩm Anh ngữ “Little Saigon Chronicles.”
01 Tháng Tư 2025(Xem: 1177)
Vào lúc 11 giớ sáng Chủ nhựt 30 tháng 3 năm 2025 phòng sinh hoạt của Thư Viện Việt Nam góc đường Westminster và Euclid đã không còn chỗ trống. Trên 250 quan khách và đồng hương đã đến đây - như thông lệ hàng năm - để nhận 1 cuốn sách bằng tiếng Anh có nội dung độc đáo: Viết về lịch sử hình thành Little Saigon. Cuốn sách dày 310 trang, ghi lại diễn tiến từ 1975 đến 2024 tất cả những sinh hoạt liên quan đến sự hình thành của Little Saigon. Tác giả là 2 nhà báo sống tại Little Saigon ngay từ lúc khởi đầu, đã sưu tập tài liệu và nhất là hình ảnh để đưa vào tác phẩm. Trong buổi ra mắt sách, tác giả công phu mời các nhân vật làm business hay sinh hoạt tại Little Saigon từ lúc khởi đầu đền trực tiếp nói chuyện với quan khách...
25 Tháng Ba 2025(Xem: 1334)
Nạn đói năm Ất Dậu 1945 để lại những nỗi đau đớn tột độ cho những người sống sót và ấn tượng kinh hoàng cho những người đã chứng kiến. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam lại xảy ra một biến cố thảm thương như thế.Hoàn cảnh và những nguyên nhân nào đã đưa đến nạn đói năm Ất Dậu? Mời độc giả tìm đọc trong bài viết này với nhiều chi tiết gây xúc động mạnh mặc dù sự việc đã xảy ra 80 năm trước đây.
12 Tháng Giêng 2025(Xem: 3652)
In the final days of May, 1975, it was a time of book persecution for the people of South Vietnam. As soon as the Communists seized Saigon, they hastily ordered the confiscation of all South Vietnamese books and newspapers, which they labeled as "decadent and reactionary culture."

DỦ HỌC DỦ NGU

03 Tháng Mười Một 20236:44 CH(Xem: 7158)
ANH LẬP 6
DỦ HỌC DỦ NGU
NGUYỄN ĐỨC LẬP

ANH LẬP 1
Nhà văn Nguyễn Đức Lập trong buổi ra mắt tác phẩm BÁCH VIỆT TIÊN HIỀN CHÍ tại Thư Viện Việt Nam

Vài hàng về
Nhà văn NGUYỄN ĐỨC LẬP
(1945-2016)


Nguyễn Đức Lập, tự là Chánh Phương, nhiều bút hiệu: Chánh Phương, Hương Giáo, Ngô Phụng Anh; thỉnh thoảng ký tên rừng “Sóc Vui Vẻ”.

Anh sinh năm dân Việt Nam chết đói tràn lan, năm Tân Dậu 1945, tại Tư Nghĩa, Quảng Nghĩa. Con trai thứ của nhà thơ-nhà báo Hồng Tiêu – Nguyễn Đức Huy (1902-1985) và nhà văn nữ Tùng Long – Lê Thị Bạch Vân (1915-2006), một tác giả nổi tiếng tại miền Nam trước 1975 (Độc giả luôn trìu mến gọi bà là “Bà Tùng Long”, lừng danh với mục “Gỡ Rối Tơ Lòng” trên tờ Sài Gòn Mới của bà Bút Trà).

Anh có chín anh chị em. Trong đó có Nhà thơ Trạch Gầm (là anh) và Nhà văn Nguyễn Đông Thức (là em).

Anh học trung học Pétrus Ký. Tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, nguyên luật sư Tòa Thượng Thẩm, Sài Gòn.

Sau 30 Tháng Tư, 1975, Anh bỏ thành đô lên rừng làm rẫy ở ấp Phước Lập, xã Phú Mỹ, tỉnh Biên Hòa.

Năm 1980, Anh vượt biên đến trại đảo tị nạn Palawan, Bataan, Philippines. Tại đây Anh và các Huynh trưởng thành lập Liên Đoàn Ra Khơi (truyền thống Phong Trào Hướng Đạo Việt Nam). Sau này khi đã định cư ở Hoa Kỳ, Anh vẫn còn thường lui tới sinh hoạt, hướng dẫn cho các đoàn sinh Ra Khơi đến tận năm 2006, khi chính phủ Hoa Kỳ và Canada một lần nữa ra tay đón nhận thuyền nhân Việt Nam còn kẹt lại Phi (vô tổ quốc).

Anh tị nạn tại Hoa Kỳ năm 1983, nối nghiệp thân mẫu, ngày đêm sáng tác và xuất bản sách.

Khi bước xuống ghe lênh đênh tìm tự do, Anh bỏ lại văn bằng Luật sư, bắt đầu phóng bút để đẩy mạnh hơn cuộc đấu tranh cho dân tộc Việt.

Sau khi báo Tin Việt của Ký giả Nguyễn Thượng Hiệp đình bản, Anh được cặp Ngọc Hà – Du Miên mời về làm tổng thơ ký cho các báo Thời Báo, Sân Khấu, Người, Nguyệt san Người Việt Tự Do (xuất bản tại Little Saigon, quận Cam).

 

Anh góp sáng tác đều cho nhiều báo: Làng Văn (Canada), Hoa Thịnh Đốn Việt Báo, Nhân Văn, Văn Học, Đường Sống, Hoa Sen, Sức Sống, Trẻ (Dallas) v.v… và nhiều đặc san của các Hội Ái Hữu, các Thiền Viện v.v…

 

Đa số sách của Anh được nhà xuất bản Hoa Gấm và Thời Báo in và phát hành.

 

Ngoài Phong trào Hướng Đạo, Anh còn cùng các Anh Trầm Tử Thiêng (Nhạc sĩ) và Trần Lam Giang (Nhà văn) thường đi thuyết trình, hướng dẫn cho giới trẻ thuộc nhiều tổ chức giáo dục thanh thiếu niên tại hải ngoại.

 

Đầu thập niên 1990 Anh cùng nhiều Anh Chị Em cùng chí hướng mở khóa đào tạo “Việt Nghĩa Đoàn” tại Anaheim, California, Hoa Kỳ quy tụ các thanh thiếu niên sinh hoạt các đoàn thể trẻ khắp thế giới. Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng sáng tác “Việt Nghĩa Đoàn Hành Khúc”, thu âm qua hai giọng ca Khánh Ly và Ngọc Minh, tập hát cho hơn 200 trại sinh trong suốt khóa huấn luyện.

 

Năm 1999, Anh cùng Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, Bác sĩ Nha khoa Võ Trọng Di, Nhà văn Trần Lam Giang và Nhà báo Du Miên thành lập Thư Viện Việt Nam (Nhân Ái Foundation, Vietnamese Cultural Center, VHV Foundation), Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam trụ sở tại Garden Grove, California, Hoa Kỳ.

 

Anh mất năm 2016 tại Houston, Texas.

 

Trong buổi lễ tưởng niệm Anh tại Thư Viện Việt Nam, Nhà văn Trần Lam Giang nói: “Nguyễn Đức Lập là người hiền chứ không lành. Trước năm 1975, Lập cùng bạn đồng nghiệp thành lập Đoàn Luật Sư Công Chính để ngăn chặn những luật sư không công chính, dùng luật pháp để bảo vệ thiểu số chống lại đa số, và số người bị oan ức khá nhiều. Đoàn Luật Sư Công Chính của Lập nhận cãi cho người cô thế mà không lấy tiền, điều này dĩ nhiên mất nồi cơm của những người không công chính. Vì vậy phải có đụng độ, và Lập đã đụng độ kể cả bằng sức lực. Như vậy thì không lành đâu!”

 

Quả đúng như anh Trần Lam Giang kể, Anh Nguyễn Đức Lập từ khi còn là Sinh viên trường Luật vẫn kẹp kè kè trong mấy cuốn sách “vũ khí” (của sinh viên, học sinh: cây viết đầu nhọn và cứng) để tự vệ (khi bị tấn công) hoặc có lúc phải “thị uy” với đám nằm vùng hoạt động cho Việt Cộng tại Đại học Luật khoa Sài Gòn. Nhiều bạn cùng trường với Anh vẫn nhắc chuyện Anh từng cầm bút nhọn rượt bọn “rủ rê sinh viên bỏ vô khu” (Cục R Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) té khói.

 

Hãy nghe bào huynh của Anh, nhà thơ Trạch Gầm kể về em của mình (Nhà văn Nguyễn Đức Lập): “Từ lúc mới sinh em tôi thường khóc, thở không nổi nên ốm yếu, gia đình nuôi nấng rất khó nhưng không tìm được nguyên do. Khi em tôi học năm thứ hai ở trường Luật, được một người quen là bác sĩ chuyên khoa về tim ở Pháp chẩn bệnh, thì phát giác trong tim của em tôi có một lỗ thủng. Hồ sơ bệnh lý chuyển vào bệnh viện Cộng Hòa để được miễn trừ quân dịch vĩnh viễn nên em tôi tiếp tục con đường học vấn. Lập học giỏi nhất trong số các anh em trong nhà, và có trí nhớ rất siêu phàm…”

Qua đó, biết là Anh không khỏe người vạm vỡ sức lực siêu phàm nhưng ý chí, quyết tâm của Anh cũng biến thành sức mạnh vũ bão, qua việc rượt bọn nằm vùng, và sau này, trên văn đàn, ngòi bút của Anh chưa hề cong bao giờ.

Ông Hoàng Đình Khuê, sinh viên Võ Bị Quốc Gia Việt Nam khóa 16, đánh giá tinh thần của Anh Nguyễn Đức Lập: “Lập có một cuộc sống giản dị, hiền lành nhưng rất cộc tính. Tôi phục con người của Lập vì có lập trường cứng rắn, có tinh thần chống Cộng triệt để theo cách suy nghĩ và quan điểm độc lập của riêng mình. Tôi thích tính ba gai, cố hữu của Trạch bao nhiêu thì thương cái tính hiền lành, thư sinh của Lập bấy nhiêu. Lập là một huynh trưởng Hướng Đạo, có lẽ vì vậy mà con người của Lập đã ảnh hưởng bởi cuộc sống Hướng Đạo nên em lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ cho người, phục vụ cho đời.”

Một đồng nghiệp, Luật sư Đỗ Thái Nhiên (Nguyễn Phương Minh) thì: “Anh Lập có vẻ bề ngoài dung dị, hiền lành, ít nói nhưng hơi cộc. Tuy nhiên Anh chỉ nổi cộc khi đứng giữa hai vấn đề thiện và ác. Anh lúc nào cũng tỏ thái độ gay gắt, tuyệt đối không có vấn đề trung lập giữa thiện và ác. Anh cho rằng Cộng Sản là tập thể cực ác, đó là ác; còn những người chống lại Cộng Sản độc tài, đó là thiện. Do đó, xin miễn nói những lời nhẹ nhàng, dịu giọng đối với Cộng Sản, đó là thái độ dứt khoát của Anh.”

Đồng nghiệp khác, Luật Sư Lê Trọng Uyên nhận xét: “Nguyễn Đức Lập có cách viết rất đặc biệt. Khi anh nói một câu chuyện về miền Nam thì dùng khẩu ngữ của miền Nam. Tuy vậy, khi nói về miền Bắc thì anh dùng những thổ âm, thổ ngữ địa phương của miền Bắc, mà chỉ những người trong vùng đó hoặc am hiểu về ngôn từ nhiều thì mới biết được. Đó là vốn quý văn hóa mà ít người có được, bởi vì đó chính là hồn quê của mỗi địa phương. Anh không lập gia đình, nhưng anh sống trong tình yêu thương của anh em Hướng Đạo. Anh đã sống một cuộc đời rất dung dị. Anh đã bỏ nửa cuộc đời mình ra chỉ để viết. Anh đã viết những điều mà rất nhiều người không viết được. Tuy nhiên, anh nói rằng anh không phải nhà văn, anh chỉ viết lại những chuyện đã xảy ra mà thôi. Và dù ở Mỹ hơn 30 năm nhưng anh không biết chạy xe. Bởi vì anh nói, nếu chạy xe thì cái chân đi nhiều, mà đi nhiều thì sẽ không tập trung viết được…”

 

Các tác phẩm đã xuất bản:

Thơ:

– Những Đêm Không Ngủ, 1986.


Truyện Ngắn:


– Cuộc Chiến Tàn Chưa, 1987

- Cặp Mắt Quay Lại, 1992

- Khung Rào Hẹp, 1992

- Lớp Trước, Lớp Sau, 1994.

Truyện Dài:


– Kiếm Đạo 1: Bảo Kiếm Tặng Anh Hùng, 1987

- Kiếm Đạo 2, Thần Thư Trao Hào Kiệt, 1987


- Ngắn Cổ Khó Kêu, 1989


- Nhứt Biết Nhì Quen, 1990


- Phong Vũ Tiêu Tiêu, Lôi Vũ Động, 1991


- Giàn Đậu Mưa Rung, 1992


- Trần Ai Khoai Củ, 1994


- Mảnh Vụn Một Đời, 1999


- Đi Trước Về Sau, 2009


Những tác phẩm của Anh chưa kịp in nay đã được người em, người học trò của anh: Nguyễn Văn Phúc đích thân đánh máy, trình bày và in phát tặng rộng rãi.

(DU MIÊN)


MỘT SỐ HÌNH ẢNH:
ANH LẬP 3
Nhà văn Nguyễn Đức Lập và Nhà báo Du Miên trong buổi tiếp tân cùng báo giới Little Saigon tại Thư Viện Việt Nam

ANH LẬP 2
Nhà văn Nguyễn Đức Lập trong buổi họp báo giới thiệu tác phẩm VIỆT NAM SUỐI NGUỒN VĂN MINH PHƯƠNG ĐÔNG
ANH LẬP 4
Lễ tưởng niệm Nhà Văn Nguyễn Đức Lập tại Thư Viện Việt Nam

ANH LẬP 5
Mỗi người một đóa hoa tưởng niệm Nhà văn Nguyễn Đức Lập


* * *

Nghe cái câu “Dủ học dủ ngu”, càng học càng ngu, dễ mấy ai tin được. Càng học thì phải càng khôn ra, cũng như gừng, quế, “dũ lão dũ tân”, càng già càng cay, mới phải cho chớ.

Hồi nhỏ, tôi học chữ Nho với thân phụ. Cha thì dạy nghiêm túc, nhưng thằng con thì học lơ là, lại thêm cái tánh rắn mắt, cắc cớ đã quen. Nên nhiều khi nó cố tình cắt nghĩa những câu chữ Nho học được theo ý của nó để cười chơi.

Học tới câu “Dủ học dủ ngu”, tôi đã dám ngồi xếp bằng chễm chệ, đã nói là cái tánh rắn mắc cắc cớ đã quen mà, cắt nghĩa cho thằng em tôi như vầy:

- “Dủ học dủ ngu”, là “càng học càng ngu”, thành ra, trò học ít thì trò ngu ít, trò học nhiều thì trò ngu nhiều, mà trò không học thì trò không ngu.

Thằng em gật đầu khoái trá, ai dè được mà cha tôi đứng ở sau lưng. Tôi bị 5 roi quắn đít và học 1 bài học nhớ đời: “chữ nghĩa thánh hiền không thể đem ra mà đùa giỡn được”.

 

Không biết ông Mai Thảo có học 1 bài học để đời như tôi vậy chăng, nhưng ông cũng nói y như vậy, chỉ có điều ông không dùng “chữ nghĩa thánh hiền”, mà ông dùng 2 chữ “văn chương”. Ông nói: “Đối với văn chương phải nghiêm túc, không đùa giỡn được”. Ông có thể lơ ngơ thất thiểu ngoài đường phố, đi bộ mà cũng bị cảnh sát công lộ phạt về tội vi phạm luật lưu thông (1). Ông có thể lè nhè nơi tiệc rượu khiến cho con nít giỡn mặt. Nhưng, khi viết, ông viết rất nghiêm túc, không bao giờ đùa giỡn với văn chương.

Bị đòn, bị học 1 bài học để đời, nhưng với tuổi trẻ háo thắng, tôi không bao giờ tin rằng “càng học càng ngu”. Tin làm sao được khi con đường học vấn cứ thẳng tắp, lấy hết văn bằng này tới văn bằng kia và ra trường với 1 nghề vững chắc, trong khi mặt còn non choẹt, còn búng ra sữa, phải xin phép cha để râu mép, cho được gìa dặn thêm 1 chút (phải xin phép để râu vì cha tôi quan niệm rằng: “Cha chưa chết, con không được để râu”).

Cho đến khi lăn lộn ngoài đời, tôi mới biết rằng có rất nhiều điều mà sách vở và học đường không hề dạy. Học đường học chợ, học trên báo chí, nghe lóm những bậc trưởng thượng, thấy rằng kiến thức của mình “thiên bất đáo, địa bất chí”, càng học càng thấy ngu.

Chưa cần nói tới những chuyện trời cao, đất rộng, biển thẳm, núi cao, sông dài chi cho xa, chỉ những câu ca dao, những câu hát ru em huê tình, tai vẫn nghe hoài, miệng cũng có khi hát, tưởng rằng đã hiểu cháo chan, ai dè biết ra, không hiểu 1 cái gì hết.

Hồi nhỏ, chị tôi ru em, vẫn thường hát câu:

Chim quyên ăn trái ổi tàu

Xứng đôi mẹ gả, ham giầu mà chi

Tôi nghe câu này tới thuộc lòng mà không hề thắc mắc. Dễ quá mà, “ổi tàu” là giống ổi ở bên Tàu chứ còn cái gì nữa! Giống ổi ở bên Tàu, dĩ nhiên, phải lớn hơn, phải ngon hơn ổi bên mình, cũng như con ngựa to lớn thì gọi là ngựa Bắc Thảo, con gà, con vịt to con, được gọi là gà Tàu, vịt Tàu …

Không hề thắc mắc như vậy, cho mãi tới hơn nửa đời người, đọc 1 bài của ông Võ Phiến, mới biết rằng “ổi tàu” ở trong câu hát không phải là giống ổi bên Tàu, mà là 1 loại cây hoang, mọc thành từng lùm từng bụi ở mấy vùng đất gò miền Trung, cây này ở miền Bắc gọi là hoa cứt lợn, còn ở cái xứ “chó ăn đá, gà ăn muối” của tôi thì gọi là bông ngũ sắc. Tôi đã từng hái trái của nó, lớn chỉ bằng hột tiêu, để ăn, đã từng hái những cái bông của nó để hút chất mật ngọt ở cuống bông, mà đâu biết tên của nó là ổi tàu! Mẹ tôi vẫn thường hái bông ổi tàu này, chưng với đường phèn cho anh em tôi uống mỗi khi bị ho.

Có 1 câu hát ru em nữa, mà tôi cũng nghe đi nghe lại hoài:

Trách ai ăn giấy bỏ bìa

Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa

Câu này thì tôi có thắc mắc, giấy thì làm sao mà ăn? “Ăn giấy bỏ bìa” là làm sao? Tại sao hạng người “ăn giấy bỏ bìa” khi thương lại thương vội, khi lìa lại 1 mạch lìa luôn theo kiểu “hạ thủ bất lưu tình”?

Tôi đem những thắc mắc này hỏi nhiều người, kể cả những ông thầy dậy Việt Văn, nhưng không có ai trả lời nghe xuôi tai được.

Cho mãi tới sau khi đổi đời, “giả dại qua ải” (mà chút xíu nữa thành dại thiệt), về ở rẫy, tôi mới được nghe giải thích thỏa đáng câu hát này.

Người dạy tôi là bà Ba Thời. Bà này, cạo đầu, ăn chay trường, tu tại gia, không ăn trầu, nhưng hút thuốc phun khói còn hơn là đầu máy xe lửa. Bà có biệt tài chữa bệnh bằng phương pháp cắt lể rất mát tay. Nhiều người, trong đó có tôi, nhờ bà chữa trị mà lành bịnh được. Đặc biệt bà có 3 con dao để lể, 1 cái bằng vàng, 1 cái bằng bạc, 1 cái bằng đồng, cái nào cũng chỉ lớn bằng cây móc tai. Tùy theo con bịnh nặng nhẹ mà bà dùng con dao nào để lể. Bà, người nẩm thấp, hơi nới về chiều ngang, mấy ngón tay mũm mĩm no tròn như nải chuối cau, nhưng cắt lể cho bịnh nhơn, bà làm coi bộ gọn gàng nhặm lẹ khéo léo lắm. Tôi khoái nhất là cái màn được bà se se mấy sợi tóc, rồi giựt nghe cóc cóc.

Đọc tới đây xin độc giả đừng vội lên án tôi là tuyên truyền đề cao cho những phương pháp chữa bệnh thiếu khoa học. Chuyện thiếu khoa học hay đúng theo khoa học, biết làm sao mà nói cho cùng. Tôi viết ra đây là theo những điều chính tôi đã từng trải qua, theo kiểu “thấy mà tin”, chớ không hề thuyết phục ai phải tin theo mình cả.

Hồi 77, 78 trong nước bị khủng hoảng kinh tế nặng, một trăm thứ bệnh đều chữa bằng xuyên tâm liên, sống ở rẫy, nếu không có những người như bà Ba Thời, bà Tám Thông, có lẽ tôi đã ấm mồ xanh cỏ từ lâu.

Bà Tám Thông cũng chuyên về giác lể như bà Ba Thời, nhưng hành nghề chính thức. Mỗi ngày, bà quẩy gánh, đem đồ nghề ra chợ Phú Mỹ (nằm trên quốc lộ 15, đường Sài Gòn-Vũng Tàu), giác lể, ăn tiền. Bà Ba Thời chỉ cắt có 1 vết nhỏ, rồi nặn ra 1 chút máu. Bà còn dùng bông gòn sạch, tẩm dầu tràm, chặm lên vết thương đàng hoàng. Còn bà Tám Thông sau khi cắt, dùng bầu thủy tinh giác hơi để hút máu. Bà nào làm ăn cũng rất bầy hầy. Bà dùng 1 nùi giẻ rách bươm, lau máu lau vết thương cho bịnh nhơn. Không biết 1 năm bà giặt được mấy lần, nùi giẻ dơ hầy, hôi rình.

Bởi lối chữa bịnh của bà Tám Thông làm mất máu nhiều quá, trong thời buổi ăn khoai mì cầm hơi, 1 giọt máu còn quí hơn vàng và bởi cái lối làm ăn của bà thiếu vệ sinh quá, nên tôi chỉ nhờ bà ra tay có 1 lần. Độ ấy, cứ chiều chiều là tôi cảm thấy ớn lạnh, tay chân bải hoải. Bịnh kéo dài cả tháng không hết. Một người hàng xóm, là thím Sáu Liệt, nói tôi bị trúng nước, nếu không chữa trị cho sớm, để lậm vô phổi, thì chỉ có “bà cứu nị”. Và thím giới thiệu tôi tới bà Tám Thông. Vừa nằm dài, đưa lưng trần cho bà cắt, giác, mà tôi nhờm gớm cái gì đâu. Tôi nhủ thầm là tự hậu, không bao giờ tới bà lần thứ 2. Quả thiệt như vậy, tôi không tới gặp bà lần nào nữa, vì chỉ 1 lần chữa trị đó, bịnh hết hẳn. Mấy chuyện như vậy, biết sao mà nói cho cùng (2).

Cái chuyện cắt lể khiến cho tôi nói sang đàng, xin trở về đề tài “ăn giấy bỏ bìa”.

Bữa ấy, tôi ráng lội qua nhà bà Ba Thời để nhờ bà trị cho cho cái chứng Thiên Đầu Thống, đau đầu có 1 bên. Bà lấy cây kim vàng ra lể. Nói không phải để quảng cáo cho bà, bà chữa bịnh đâu có nhận tiền thù lao, chỉ cứu nhân độ thế mà thôi, vả chăng, bà mất đã 10 năm có lẻ, cát bụi trở về với cát bụi lâu rồi, đâu cần tôi phải quảng cáo, bà cắt lể, giựt tóc nghe cóc cóc cho tôi 1 hồi, bịnh 10 phần nhẹ hết 8, 9. Bà chỉ vô cái võng treo tòng teng ở góc nhà, biểu tôi: “Thằng Tám mày nằm đó, đánh 1 giấc đi, ngủ 1 giấc, mày sẽ hết nhức đầu luôn.”

Nằm trên võng, chưa ngủ được, tình cờ mà tôi học được thế nào là “ăn giấy bỏ bìa”.

Ngồi trên bộ ván ngựa, bà Ba Thời trải rộng tờ giấy quyến, lớn bằng tờ nhật trình khổ lớn. Bà cẩn thận xếp đôi chiều dọc của tờ giấy, bà xếp đôi nữa, rồi lại xếp đôi nữa. Bà dùng dao rọc theo những lằn xếp. Tờ giấy, như vậy, được rọc ra thành tám mảnh, chiều dài vẫn giữ y nguyên. Tự nhiên, bà nói:

- Rọc giấy như vậy kêu bằng ăn giấy. Miếng giấy, tao rọc làm 8 vun, kêu bằng ăn 8, nhiều người hà tiện, rọc thành 16 vun, kêu bằng ăn 16. Nhưng giấy ăn 16, điếu thuốc ngắn ngủn, kéo chưa đủ 3 hơi đã hết. Tao thà chịu tốn giấy, ăn 8, đặng vấn điếu nào đáng điếu nấy, hút mới đã.

Không chờ không đợi mà tôi còn mừng hơn là khi không bắt được vàng thoi bạc nén vì bỗng dưng, bà ngâm nga:

Trách ai ăn giấy bỏ bìa

Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa.

Bà cắt nghĩa liền:

- Thằng Tám mày thấy không? Giấy quyến đâu có bìa, hổng có cái gì đáng mà phải bỏ hết. Vậy mà có những kẻ ăn giấy, bày đặt bỏ trên, bỏ dưới, bỏ tả, bỏ hữu. Những kẻ ăn giấy bỏ bìa này chánh thị là ba cái quân điệu bộ kiểu cách lỏng nhách, mà lại kiêu căng phí phạm bạc hẳn không ai bằng.

Bà ngậm ngùi ngang:

– Tao khổ gần 1 đời cũng vì ba cái quân “ăn giấy bỏ bìa” này đây… bị, hồi đó, tao nghèo quá …

Té ra, giấy ở đây là giấy quyến để vấn thuốc, và ăn giấy là như vậy đó, chớ giấy không lẽ bỏ vô miệng mà ăn được. Và, có nghe bà Ba Thời giải thích như vậy, tôi mới hiểu được tại sao cái kẻ “ăn giấy bỏ bìa” lại “khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa”.

Khi tôi cảm ơn vì đã học được, đã được giải thích tường tận những điều thắc mắc ôm ấp từ lâu, thì bà Ba Thời cười, khoe hàm răng ám khói vàng khè.

- Tao mà dạy cái gì? Chữ nghĩa của tao vừa đủ để ký tên. Đây là tay tao làm, miệng tao nói, cho vui vậy thôi …


Có người sẽ trách rằng tại làm sao mà tôi lại chấp nhận lời giải thích của 1 người phụ nữ quê mùa ít học 1 cách dễ dàng như vậỵ. Trách tôi thì tôi chịu. Thú thật, tôi vẫn còn đem thắc mắc về cái câu “ăn giấy bỏ bìa” ra hỏi nhiều người lắm, có người là nhà ngữ học lừng danh nữa, nhưng không có ai giải nghĩa được hết.

Có 1 lần, đọc trên 1 tờ báo, nơi mục giải đáp thắc mắc, tôi thấy có người cũng thắc mắc về cái câu “ăn giấy bỏ bìa”, hỏi rằng giấy làm sao mà ăn được, người giữ mục giải đáp đã trả lời rằng câu đó sai rồi, phải sửa lại là “trách ai được giấy bỏ bìa” mới đúng.

Đọc tới đó tôi bỗng ngậm ngùi, vì phải ai cũng có cơ duyên gặp được bà Ba Thời như tôi vậy đâu. Bà bây giờ, đã ra người thiên cổ, 1 chữ cũng là thầy, huống hồ bà còn dạy cho tôi nhiều điều khác nữa.

Có lần, bà mời tôi hút thuốc, bà nói thuốc ngon lắm. Thuở đó, chuyện hút thuốc, tôi còn là trong mơ, cứ tưởng thuốc ngon là thuốc nhẹ lâng lâng, như kiểu thuốc vàng sợi ở Lạng Sơn... Nào dè, thuốc của bà, mới rít vô 1 hơi, tôi đã muốn bể phổi, ho sặc sụa. Té ra, thuốc ngon là thuốc nặng, có biết như vậy rồi, mới hiểu được tường tận ý nghĩa câu thuốc ngon nửa điếu”. Trời ơi, thuốc ngon cỡ như thuốc của bà Ba Thời, mà chỉ còn có phân nửa, quến nhựa của nửa điếu thuốc trước thì… ngon kể gì.

Tôi có cơ duyên may mắn được gặp bà Ba Thời và có gặp được bà rồi mới biết mình còn ngu nhiều lắm.

Có nhiều câu thành ngữ, nghe người ta nói, hay đọc trong báo chí, sách vở, riết rồi quen, tôi cũng nói y theo như vậy, không cần biết trúng trật, không cần nghiệm coi nó có hợp lý hay không. Thí dụ như câu “Một kiểng hai quê”. Câu này, người ta vẫn thường nói và tôi vẫn nói theo, để chỉ người đàn ông có 2 vợ...

Một dịp tình cờ, tôi nghe chị Mũ Đỏ Vũ Thị Vui nói khác, chị Vui là 1 phụ nữ, có 1 thời ngang dọc, là 1 sĩ quan nổi tiếng trong binh chủng Nhảy Dù. Chính chị làm quan, chứ không phải làm quan tắt. Chị bày tỏ ý kiến 1 cách nhẹ nhàng, không cần thuyết phục người nghe:

– Phải nói là “Một kiểng hai huê” mới đúng.

“Huê” là “hoa”, vì kiêng tên bà Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng, nên chữ “hoa” phải đọc là “huê”, ở miền Trung, có nơi còn đọc là “ba”, miền Nam thì nói là “bông” (3).

Bữa chị Vui nói đó, có mặt cả nhà thơ Lê Giang Trần. Nhà thơ này có nghĩ gì không, tôi không biết, riêng tôi, nghe xong, tôi giật mình. Té ra, bấy lâu nay mình quen miệng nói theo người ta, trật lất mà mình không biết. 1 chậu kiểng mà trồng 2 loại hoa khác nhau, để chỉ người đàn ông 2 vợ là phải quá rồi.

Từ cái câu “Một kiểng hai huê”, mới hợp với câu ca dao:

“Một bồn một kiểng tuổi xanh

Một chàng, hai thiếp khổ anh nhiều bề”.

Tại sao mà khổ dữ vậy?


Tại vì:

“Một chàng, hai thiếp, anh xử hiếp tôi rồi,

Tối, buồng ai nấy ngủ; gạo, hai nồi nấu riêng.”

Đó, như đã nói, có nhiều câu nhiều chữ, nói riết thành quen, rồi hiểu cũng theo 1 thói quen, không cần tìm tới tận gốc cái nghĩa đích thực của nó.

Hồi nãy, tôi nói tới chữ “ổi tàu”, bây giờ, xin nói tới “thịt kho tàu”.

Hồi trước, chỉ có người miền Nam mới biết món thịt kho tàu. Ăn với dưa giá trong mấy ngày tết. Bây giờ, bất kỳ là Bắc, Trung, Nam, không mấy người là không biết món thịt kho tàu. Kho làm sao, không ướp hành ướp tiêu gì hết, mà vẫn thơm tho? Kho làm sao mà miếng thịt mềm rục nhưng không nát, kho làm sao mà không bỏ nước màu, nước thịt vẫn tươi màu nâu đỏ, trong khe? Mấy điều này, xin hỏi mấy bà nội trợ lành nghề. Tôi chỉ biết về điều tôi học được về “thịt kho tàu”.

Ăn món thịt kho này từ hồi mới mọc 3 cái răng cửa, tới hơn nửa đời người, tôi vẫn cứ đinh ninh món này là món của người Tàu.

Thịt kho tàu là món thịt kho của người Tàu, chắc nhiều người cũng nghĩ như tôi vậỵ.

Nghĩ riết như vậy rồi quen, không hề thắc mắc rằng trong các tiệm ăn do chính người Tàu làm chủ và làm đầu bếp chính, kể cả các tiệm ăn bình dân, không hề có món thịt kho tàu, ghi trong thực đơn. Mà thiệt, gẫm cho cùng, bên Tàu, xứ lạnh, làm gì có cây dừa, để có nước dừa tươi đổ vô nồi thịt kho.

Mãi cho đến khi đọc 1 bài của Ông Bình Nguyên Lộc, viết cho các em thiếu nhi, mới hiểu rằng chữ “tàu”, ở đây, theo nghĩa của người “miền dưới” là “lạt”, như sông Cái Tàu Thượng, sông Cái Tàu Hạ là 2 con sông nước lợ.

Té ra, kho tàu là kho lạt lạt chứ không phải là kho theo kiểu người Tàu!

Cũng nói quen miệng mà không cần tìm hiểu là “cây lẻ bạn”.

Lẻ bạn là loại cây giống như cây thơm, cây dứa, nhưng thấp hơn, nhỏ hơn, cao độ hai tấc, hai tấc rưỡi là cùng. Tàu lá lẻ bạn màu tím than, bông mục ra ở dưới gốc, giống như 2 cái vỏ sò khép lại. Khi bông nở, hai mảnh hé ra, nhụy là những hột trắng tươi.

Ở miền Nam, người ta thường trồng cây lẻ bạn ở những gò mả, ngụ ý sự thương tiếc ngậm ngùi, người sống cũng lẻ bạn, người chết cũng lẻ bạn.

Đó là tất cả những gì mà tôi biết, tôi hiểu về cây lẻ bạn. Tôi chưa 1 lần trồng cây lẻ bạn bên mộ của ai, nhưng tôi thích cái ý nghĩa này.

Nào dè tôi biết, tôi hiểu trật lất.

Đọc sách cụ Vương Hồng Sển mới biết cây này tên của nó không phải là cây “lẻ bạn”, mà là “lão Bạng”, lấy từ câu “lão Bạng sanh châu” (con trai, con sò già, sanh ra ngọc). Sở dĩ cây gọi làm vậy là vì bông của nó giống như 2 vỏ sò úp lại và khi nở bày nhụy trắng tinh bên trong như những hạt minh châu.

Cụ Vương còn cho biết ở vùng núi Ngũ Hành Sơn ở Quảng Nam, cây Lão Bạng mọc làng khang. (4)

Biết thêm một điều gì, đỡ ngu thêm một chút, nhưng trường hợp của cây Lão Bạng này, tôi nghĩ thà là không biết còn hơn. Bấy lâu, tôi vẫn thấy bụi cây màu tím đó, mọc bên cạnh 1 ngôi mộ, là 1 hình ảnh nên thơ, nói lên 1 ý nghĩa thương tiếc ngậm ngùị “Lẻ bạn” bỗng trở thành “Lão Bạng”, hình ảnh nên thơ, chan chứa tình cảm đó, bỗng nhiên biến mất …

Tôi, bây giờ, ai “đem tiêu muối vải lên đầu” rồi, mà muối đã nhiều hơn tiêu, ngồi mà tiếc lại thời gian đã qua, bỏ lỡ nhiều dịp may để mà học. Nhưng, tiếc là tiếc vậy thơi chớ làm sao níu kéo lại được thời gian.


Thế giới càng ngày càng văn minh tấn tới khoa học kỹ thuật tiến triển mau lẹ tới mức theo không kịp, tôi vẫn nuôi tham vọng muốn học nhiều, nhưng ngày giờ có chừng, sức người có hạn, học làm sao cho hết. Bà Ba Thời đã về với cát bụi, các ông Bình Nguyên Lộc, Vương Hồng Sển cũng không còn, nhưng các bạn trẻ tấn lên, cái kiến thức về khoa học kỹ thuật của họ, học biết bao giờ rồi?

Đức Khổng Tử dạy rằng: “Vi nhơn nan” (làm người thì khó). Nội cái chuyện học làm sao để sống cho ra con người, xứng đáng là 1 con người, cũng đã hụt hơi.

Tôi lớn lên trong phong trào Hướng Đạo, Luật phong trào dạy: “Trong sạch từ tư tưởng, lời nói tới việc làm”. Cho tới ngày giờ này, điều luật vẫn làm tôi lao đao, chỉ biết cố giữ câu châm ngôn “gắng sức” của sói con, để cho ngựa đừng trở chứng đạp rào.

Đức Phật là người đi mà không đến. Cái học của tôi cũng vậy, học thầy, học bạn, học sách, học báo, học đường, học chợ, học chỉ để mà học. “Dủ học dủ ngu”.

Ngày xưa, thầy Tử Lộ hỏi Đức Khổng Tử khi nào thì chấm dứt sự học. Vị Vạn thế Sư Biểu đã trả lời rằng:

– Khi huyệt đã đào nhẵn nhụi rồi, đất đã đắp chắc chắn rồi, người đi đưa đã quay chưn lui gót rồi, lúc đó mới hết học.

Và, cái học khó nhứt vẫn là học làm sao để sống cho ra con người.

NGUYỄN ĐỨC LẬP
(Trích từ KỶ YẾU THƯ VIỆN VIỆT NAM 2000)

 

CHÚ THÍCH:

(1) Khi Nhà văn Mai Thảo ngụ ở khu chung cư gần nhà hàng Song Long (Little Saigon Địa Đàng Hạ Giới), buổi sáng thường đi bộ qua khu bên kia đường để uống cà phê. Phải băng qua ngã tư Moran và Bolsa. Ông không bị ticket vì vượt đèn đỏ hay tốc lực nhanh mà là vì đèn đường chưa xanh, đèn bộ hành chưa bật mà ông lửng thửng băng qua đường (vì vắng xe lúc sáng tinh mơ). Cảnh sát biên giấy phạt ngay trước Trung tâm băng nhạc Thanh Lan (của giám đốc Hoa Hậu Nghệ Sĩ Thanh Lan), Nhà văn chỉ cười. Cảnh sát nói đi nói lại gì đó Nhà văn cũng cười và Nhà văn cũng không biết để mà nhận ticket. Ký giả Ngọc Hà và Du Miên thấy vậy, “giải vây”. Sau khi nghe giải thích, viên Cảnh Sát thông cảm. Nhà văn Mai Thảo không thèm học tiếng Mỹ, Ông từng nói với vợ chồng Du Miên rằng Ông chỉ cần biết nói rõ chữ “Cognac” để mua rượu uống mà thôi. “Vậy thì vô bar thì anh nói sao? – “Thì cũng vỏn vẹn Cognac. Lên máy bay cũng thế thôi!”


(2) Mời đọc thêm: Nền Y học, Y tế và Vệ sinh ở Việt Nam tiền bán thế kỷ thứ 20 - Tác giả: NGÔ THỊ QUÝ LINH

(3) Bà Hoàng hậu này, thiệt tình mà ghi: Vì kiêng tên Hoa của bà mà cả dân Lục tỉnh Nam kỳ phải đọc là bông hay ba. Còn xứ hoa quế xanh Thanh Hoa có tên từ thời xa xưa, tới thời bà làm Hoàng Hậu phải thêm dấu sắc và đọc làm “Thanh Hóa” mất cả chữ, mất cả nghĩa đích thực của xứ sản xuất Quế lừng danh Việt Nam.

(4) Cây Lão Bạng như vậy nhưng có một nhơn vật lịch sử thời chống thực dân Pháp có tên là Mai Lão Bạng (tức Già Châu), là bạn đồng chí với nhà ái quốc Sào Nam Phan Bội Châu:

Linh mục Mai Lão Bạng cùng một số tu sĩ, giáo dân Công Giáo đã hưởng ứng phong trào yêu nước như Duy Tân, Đông Du, Việt Nam Quang Phục Hội… Ông có viết tờ văn nhằm cổ động đồng đạo tham gia cách mạng yêu nước.

Có lúc cả Linh mục và Cụ Phan bị Tây bắt nhốt cùng xà lim. Cụ Phan làm bài thơ:

Bơ vơ đất khách bác cùng tôi:

Riêng bác cay chua nếm đủ mùi.

Tính mạng bao phen gần chết hụt

Mày râu ba lượt bị giam rồi!

Trời toan đại dụng nên rèn chí,

Chúa giúp thành công tất có hồi.

Nếu phải đường đời bằng phẳng hết,

Anh hùng hào kiệt có hơn ai.

(Bản dịch của Đào Trinh Nhất)

- Hai câu cuối, có bản dịch là "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, Anh hùng hào kiệt có hơn ai?".

Vào năm 1940, khi nghe tin đồng chí Phan Bội Châu của mình qua đời, Mai Lão Bạng tiễn bằng câu đối:

Đầu bạc đã chia phôi, hai chục thu xưa, hồ hải ghi dấu thâm giao, tôi thẹn không cùng được chết;

 

Lòng son còn chưa lạt, hai mươi thế kỷ, non sông sắp thay màu sắc, ông sao không cố vài năm.”



Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Dựa theo sắc lệnh năm 1887, năm 1891 và năm 1911, tổng-thống Pháp trao quyền hành chánh Đông-Dương cho một viên toàn-quyền. Toàn-quyền là “người thụ nhiệm những quyền hành của nền Cộng-hòa” tại Đông-Dương gồm có thuộc-địa Nam-kỳ (Cochinchine), các xứ bảo-hộ Trung-kỳ (Annam), Bắckỳ (Tonkin), Căm-Bốt (Cambodge), Ai-Lao (Laos), và lãnh thổ Quảng-Châu-Văn (Kouang-Tchéou-Wan). Toàn-quyền có quyền kiểm soát mọi công vụ hành chánh tại Đông-Dương, bổ nhiệm các công chức, phân phối nhân viên đến mỗi xứ tùy theo nhu cầu, hoặc trao quyền tổ chức và bổ nhiệm cho các viên chức hành chánh địa phương.
Nhận được thiệp mời và điện thoại từ Ký Giả Du Miên thì Khánh Lan không thể vì một lý do gì mà không đến chung vui với tất cả các vị huynh trưởng đã có công trong việc thành lập thư viện Việt Nam đầu tiên tại quận Orange, California, tọa lạc trong khu vực của Little Sài Gòn. Mặc dù hôm ấy có đến 3 tổ chức trong cùng ngày, cùng giờ, thế mà khánh phòng của thư viện đã đón tiếp rất đông quan khách đến tham dự. Đó là một điều rất vui.Liên Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian cũng có mặt gồm: Phạm Gia Đại, Trần Mạnh Chi, Lưu Mạn Bổng & Khánh Lan, Giáo Sư Dương Ngọc Sum. Truyền thông báo chí gồm, các ký giả: Thanh Phong, Văn Lan, Thanh Huy, đài VNA, SBTN, LITTLE SAIGON TV....
Dân Biểu Liên Bang Derek Trần (Địa Hạt 45) cũng có mặt tại buổi kỷ niệm và trao tặng Thư Viện Việt Nam một bằng tưởng lục để vinh danh nơi lưu giữ cho cộng đồng Việt những tài liệu lịch sử quý giá. Thị Trưởng Chí Charlie Nguyễn và Nghị Viên Mark Nguyễn của Westminster cũng trao một bằng tưởng lục cho Thư Viện Việt Nam. Nghị Viên Cindy Ngọc Trần của Garden Grove, cũng là một cô giáo, trao bằng khen, cám ơn ký giả Du Miên và cô Ngọc Hà và nhiều người đã góp công sức để có nơi cho giới trẻ học hỏi thêm về văn hóa lịch sử Việt Nam...
Thư Viện Việt Nam (tọa lạc số 10872 Westminster Ave Suites # 214 & 215) do nhà báo Du Miên Giám Đốc điều hành, cùng Ông Bà BS. Võ Trọng Di một trong năm người đứng ra thành lập thư viện trong đó có: Nhạc Sĩ Trầm Tử Thiêng, Nhà Văn Nguyễn Đức Lập, Giáo Sư Trần Lam Giang (3 người nầy đã qua đời), đã tổ chức buổi tiếp tân kỷ niệm 26 năm thành lập vào lúc 11 giờ sáng Chủ Nhật ngày 29 tháng 3 năm 2025 tại phòng sinh hoạt Thư Viện Việt Nam, với hơn 200 nhân sĩ, trí thức, một số đại diện các hội đoàn, đoàn thể, cộng đồng, các cơ quan truyền thông và đồng hương thân hữu tham dự. Nhân dịp nầy Nhà Báo Du Miên và Ngọc Hà cũng phát hành tác phẩm Anh ngữ “Little Saigon Chronicles.”
Trải qua 26 năm, Thư Viện Việt Nam đã được đồng bào ở khắp nơi tặng sách, báo và các vật quý liên quan đến văn hóa Việt Nam cho Thư Viện gìn giữ và trưng bày. Hiện tại Thư Viện có 50 ngàn đầu sách để mọi người có thể đến đọc sách, tra cứu tại chỗ miễn phí, nhất là cho các sinh viên, học sinh muốn tìm tài liệu về quê hương Việt Nam. Ngoài sách, báo, tạp chí có những cuốn sách xuất bản cách nay gần trăm năm và nay khó có thể tìm được quyển thứ 2. Ngoài ra, một lượng lớn các bảo vật như tranh ảnh mỹ thuật, đồ thủ công mỹ nghệ, tiền cổ, tem thư, các vật dụng các cụ ngày xưa hay dùng như bình vôi, điếu bát, chén, đĩa v.v… kể ra không hết. Hiện nay Thư Viện có Đốc sự Bùi Đắc Danh làm Quản Thủ, ký giả Ngọc Hà (phu nhân nhà báo Du Miên) đặc trách Phòng Hội Trung Tâm Văn Hóa, Thư Viện có Khu Bảo Vật, có Phòng Họp với 200 chỗ ngồi...
Vào lúc 11 AM Chủ nhựt 30 tháng 3 năm 2025 Thư Viện Việt Nam tiếp tân mừng Thư Viện năm thứ 26 và giới thiệu tác phẩm Little Saigon Chronicles của 2 tác giả Ngọc Hà và Du Miên. Nếu quý Anh/Chị và quý Bạn cư ngụ ở Little Saigon và phụ cận thân mời tham dự. Nếu ở xa, đặt mua sách trên amazon mỗi cuốn $24.50. Để tặng con cháu đặt mua e-book chỉ có $4.99....
Tết Nguyên Đán là dịp để tưởng nhớ đến ông bà cha mẹ đã khuất, đồng thời cũng là dịp để tông tộc gặp nhau giữ gìn dây thân ái. Suốt năm làm lụng vất vả ai nấy chỉ mong được hưởng an nhàn hạnh phúc trong mấy ngày Tết, gia đình cùng đại gia đình tụ họp sum vầy, trước là cúng ông bà sau là được thưởng thức các món ăn cổ truyền ngày Tết, trẻ con được mừng tuổi, mặc áo mới, … Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết. Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ, Cây nêu, tràng pháo , bánh chưng xanh....
Tin vui nhất cho những người muốn biết về lịch sử của người Việt Nam tị nạn đến Orange County và thành lập Little Saigon: tác phẩm “Little Saigon Chronicles” đã được xuất bản trên nền tảng Amazon với 2 ấn bản bằng giấy và ebook. Lâu nay những thông tin liên quan đến nguồn gốc và sự hình thành của Little Saigon (Westminster, California) xuất hiện trên mạng xã hội không nhiều và thiếu chính xác... Sách dày 292 trang, được phát hành dưới 2 dạng giấy trắng hình full colors giá 24.50 và dạng ebook giá 4.99, phát hành trực tiếp trên Amazon và các đại lý phân phối sách toàn cầu. Chỉ cần gõ tên tác phẩm “Little Saigon Chronicles” vào công cụ tìm kiếm (ví dụ như Google hay Bing…) sẽ hiện toàn bộ các cơ sở phát hành sách này.
Lovelittlesaigon.org tiếp tục giới thiệu CHƯƠNG II – PHẦN II của loạt khảo luận của tác giả ĐỖ HOÀNG Ý: "Khảo luận về một số địa danh nước Việt thượng cổ". Tác giả đã chia các tiểu mục trong phần II này, gồm: I. Vị trí của Phân Mao lĩnh theo ghi chép trong cổ sử, cổ thư Tàu từ thế kỷ thứ 13 đến cuối thế kỷ thứ 19 - II. Vị trí của Phân Mao lĩnh theo ghi chép trong cổ sử, cổ thư Việt từ thế kỷ thứ 15 đến đầu thế kỷ thứ 20 - III. Vị trí của Phân Mao lĩnh theo sự tìm hiểu của người Pháp từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20 - IV. Vị trí của Phân Mao lĩnh theo ghi chép trong các sách và biên khảo về sử Việt từ đầu thế kỷ thứ 20 đến thời cận đại - V. Vị trí đích thực của Phân Mao lĩnh. Đặc biệt có phần “Ghi chú và Khảo luận về sự kiện vua Quang Trung đòi lại đất Lưỡng Quảng”.
Lovelittlesaigon.org hân hạnh giới thiệu biên khảo mới của tác giả Ngô Thị Quý Linh: SƯU THUẾ THUỘC ĐỊA VÀ ẢNH HƯỞNG TRONG XÃ HỘI THỜI THUỘC PHÁP (1858-1945). Trong lời mở đầu, tác giả nhấn mạnh: “Xã hội Việt-nam ngày nay vẫn còn mang những nét của nền văn hóa và văn minh Tây phương do người Pháp đem đến. Ảnh hưởng của gần một trăm năm trong vòng bảo hộ của nước Pháp, từ năm 1858 đến năm 1945, vẫn còn được nhận thấy. Từ văn học, nghệ thuật, phong tục, đến tín ngưỡng, chính trị, kinh tế, tư tưởng, ... cả một xã hội thay đổi nhiều đến nỗi ngày nay muốn tìm lại lối sống truyền thống của người Việt thời tiền Pháp-thuộc không phải là điều giản dị.”…
VHV FOUNDATION - THƯ VIỆN VIỆT NAM
VIETNAMESE CULTURAL CENTER

10872 Westminster Avenue, Suites 214 & 215, Garden Grove, California 92843
E-mail: info@lovelittlesaigon.org